Cập nhật nội dung chi tiết về Bình Kim Dung (Kỳ 4): Lý Mạc Sầu mới nhất trên website Welovelevis.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nhắc đến nhà văn Kim Dung, người ta nghĩ ngay đến truyện kiếm hiệp. Nhưng kiếm hiệp chỉ là hình thức mà Kim Dung mượn để giãi bày triết lý nhân sinh của ông và qua đó độc giả được tiếp thụ tư tưởng lớn nhất của văn học Trung Hoa thời hiện đại.Đọc các tác phẩm của Kim Dung chính là đắm mình vào một thế giới vừa có cái đẹp cổ điển hoa lệ của 5.000 năm văn minh Hoa Hạ với những triết lý thâm ảo của cửu lưu Tam giáo, vừa là chuyến du lịch đầy hứng khởi qua nhiều vùng đất, nhiều vùng văn hóa với xiết bao phong tục tập quán đặc sắc, những núi cao sông dài, kỳ hoa dị thảo, không gì không có, như một cuốn từ điển được viết theo cách thú vị nhất.
Người đọc tác phẩm của Kim Dung để giải trí, người tìm kiếm kiến thức sử ký địa dư văn chương thi từ, người trầm ngâm với những triết lý nhân sinh và tôn giáo sâu thăm thẳm… đều được mãn nguyện. Thật là những tuyệt tác mà bao thế hệ độc giả đã không tiếc lời khen ngợi và bình phẩm.
Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộcTiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên
Nghĩa là:
Tuyết bay đầy trời bắn (nhìn) hươu trắngTruyện cười thần hiệp tựa uyên xanh
Kỳ 4: Lý Mạc Sầu – nạn nhân tuyệt vọng của chữ Tình trong “Thần Điêu Hiệp Lữ”
Nghĩa là:
Mấy ai say mê Thần Điêu Hiệp Lữ lại không nhớ bài thơ mà nữ ma đầu Lý Mạc Sầu ngâm nga từ khi mụ xuất hiện đắc thắng ở Lục Gia Trang, cho đến những giây phút cuối cùng đau đớn của cuộc đời mụ. “Vấn thế gian tình thị hà vật”, câu thơ dai dẳng đeo bám mãi Lý Mạc Sầu như một dấu hỏi lớn nhất cuộc đời họ Lý, cũng là một trong những câu hỏi lớn nhất của cuộc đời chúng ta: “Tình là chi hỡi thế gian?”.
Bài thơ tên là Mô Ngư Nhi – Nhạn Khâu là một tác phẩm của danh sĩ cuối đời Kim đầu đời Nguyên tên là Nguyên Hiếu Vấn.
Nhạn ở Trung Hoa tức là loài ngỗng trời, chúng sống thành đôi rất chung thủy. Về xuất xứ bài thơ, tác giả viết: “Năm Ất Sửu Thái Hoà thứ năm, tới Tinh Châu thi, trên đường gặp người bắt nhạn nói: “Hôm nay bắt được một con nhạn, đem giết. Con thoát được lưới buồn hót không chịu đi, cuối cùng lao xuống đất mà chết.” Tôi bèn mua lấy, đem chôn trên sông Phần, đắp đá thành mộ chí, gọi là mồ chim nhạn. Khi đó nhiều người cùng đi làm thơ phú, tôi cũng làm bài “Nhạn khâu từ”. Bài cũ đó không theo nhạc điệu, nay sửa lại”. (theo lời dẫn của thivien.net)
Một nửa đầu của bài thơ được nhà văn Kim Dung sử dụng trong Thần Điêu Hiệp Lữ, chính là ca khúc mà Lý Mạc Sầu cứ ngâm nga mãi từ thời trẻ.
Vậy, tình là chi hỡi thế gian?
Người ta hay hiểu chữ “tình” là tình cảm lứa đôi. Nhưng hiểu rộng hơn thì tình là cảm xúc căn bản nhất của con người. Khi chúng ta yêu thích ai, cái gì, việc gì thì là tình. Khi ta ghét ai, cái gì, việc gì cũng là tình. Tình cũng có nhiều mức độ, giống như từ thiện cảm, quý mến đến yêu thương, đến say mê, đến cuồng si. Hoặc từ không ưa chuộng đến ghét bỏ, đến hận thù. Đều là tình cả. Và tình là mang tính tự tư.
Con người thế nhân sống ở trong cái tình ấy và chết đi cũng vì cái tình ấy, luân hồi cũng vì cái tình ấy mà thôi. Chỉ có bậc chân tu đã biết dứt bỏ tình, thay nó bằng một điều cao thượng hơn: Lòng từ bi đối với chúng sinh bất kể thân sơ.
Thần Điêu Hiệp Lữ là câu chuyện của tình. Trung tâm của truyện là mối tình lắm nỗi đoạn trường của hai nhân vật chính Dương Quá – Tiểu Long Nữ. Nhưng không chỉ có ái tình nam nữ, cái tình mà Kim Dung viết ở đây rộng hơn thế: Từ tình cảm yêu đương trai gái đến tình mẫu tử, tình phụ tử, tình vợ chồng, tình đồng môn, tình ái quốc, tình người với người… từ những mối tình sâu nặng đến những tình cảm nông nổi bồng bột, từ những kẻ thất tình đến những người yêu đơn phương, từ mối tình của thường nhân đến những bậc chân tu dù xuất gia nhưng vẫn canh cánh một chữ tình chưa cởi được. Có tình cảm của con người dành cho nhau mà cũng có tình cảm của loài vật… thật là vô cùng phong phú và nhiều màu sắc.
Lý Mạc Sầu, vì thất tình mà tác ác đa đoan
Bộ truyện mở đầu với hai kẻ thất tình: Võ Tam Thông và Lý Mạc Sầu. Chúng ta hãy nói về Lý Mạc Sầu, dù là một nhân vật phụ, nhưng lại rất quan trọng vì đây là một trong những nhân vật bị cái tình dẫn động ghê gớm nhất, vì hận tình mà biến thành kẻ thù của thế nhân.
Ở Lục Gia Trang miền sông nước Giang Nam xinh đẹp có cặp đôi trai tài gái sắc: Lục Triển Nguyên và Hà Nguyên Quân. Trước khi thành hôn với Hà Nguyên Quân thì Lục Triển Nguyên đã từng yêu đương thề thốt với Lý Mạc Sầu, thuở ấy còn là một thiếu nữ trong sáng đẹp như tiên. Còn Hà Nguyên Quân thuở nhỏ được vợ chồng Võ Tam Thông nuôi nấng, lâu dần Võ Tam Thông cũng chẳng biết tình cảm mình dành cho Hà Nguyên Quân là gì nữa. Cho nên, hai người này đến phá đám cưới của cặp đôi kia nhưng không được. Họ hẹn mười năm sau sẽ đến Lục Gia Trang để trả thù. Trong 10 năm ấy, Võ Tam Thông như biến thành một kẻ thần trí thất thường, mơ mơ tỉnh tỉnh, vợ con chẳng thiết, đúng là điên tình. Còn Lý Mạc Sầu tàn độc hơn, mụ vì bị giành mất người yêu nên trở thành một kẻ giết người máu lạnh. Tình địch chết rồi nhưng quyết phải giết hết cả nhà họ Lục, đến con gà con chó cũng không còn. Bất cứ cái gì nhắc tới Hà Nguyên Quân cũng làm mụ điên giận. Đến nỗi cả nhà Hà lão quyền sư vốn chẳng quen biết gì mà vẫn bị mụ giết sạch, đến chết cũng không biết được lý do mình bị giết là vì… mang họ Hà. Hoặc mụ giết cả 16 nhà thuyền vì chiêu bài hành nghề mang chữ… Nguyên Quân.
Lý Mạc Sầu có dáng vẻ của một đạo cô xinh đẹp nhất, nhưng lại mang tâm địa rắn rết nhất. Mụ hay xuất hiện trong bộ đạo bào màu vàng, tay phe phẩy ngọn phất trần với phong thái có vẻ ung dung nhàn tản. Nhưng ai biết được rằng con người với bộ mặt lạnh lùng cao ngạo kia chỉ cất tay một cái là có thể lấy mạng một nhân sĩ võ lâm trong nháy mắt mà không có dấu hiệu gì báo trước. Mụ hay cưỡi trên một con lừa cổ đeo vòng lục lạc, ở đâu nghe tiếng lục lạc thì các địch thủ của mụ phải táng đởm kinh hồn. Mụ có ngón đòn tủ: Xích luyện thần chưởng, chưởng đánh ra in hình bàn tay đỏ như máu. Ngoại hiệu của mụ là Xích Luyện Tiên Tử, nó phản ánh đúng con người mụ, giống như một tiên nữ hắc ám.
Vì bị tình phụ, mụ ở vậy với quan niệm rằng: Đàn ông trong thiên hạ đều là kẻ bạc tình. Một mặt rất tự phụ vì sắc đẹp của mình, một mặt mụ rất ghét đàn ông nhìn mụ với cái tâm sắc dục. Có khi chỉ vì thế mà mụ lấy mạng người ta. Mặc dù tàn ác nhưng mụ lại giữ mình băng thanh ngọc khiết, đến chết vẫn là một xử nữ từ trong tâm khảm đến thể xác. Nhưng là một trinh nữ đại ma đầu.
Thế mà, tên đại ma đầu ghét cay ghét đắng đàn ông ấy đã hai lần bị một nam nhân nhỏ tuổi ôm cứng mà không làm gì được. Nam nhân ấy chính là Dương Quá. Lần đầu tiên, là lúc chàng 13, 14 tuổi. Lần thứ hai, là khi chàng chưa tới 20 tuổi. Cả hai lần đều là vì vạn bất đắc dĩ để ngăn Lý Mạc Sầu sát hại bạn bè và người thương của chàng. Và cả hai lần Lý Mạc Sầu đều mềm như bún không đủ sức chống trả. “Lý Mạc Sầu trong giây lát vụt nghĩ bao nhiêu điều biết tình thế nguy cấp, sống chết chỉ trên đầu sợi tóc nhưng bị Dương Quá ôm chặt, hồn vía đê mê, dễ chịu khôn tả, không muốn vùng vẫy gì hết”. (1)
Hóa ra, con người ấy cũng không phải đã hoàn toàn biến thành đao kiếm sắt thép. Vẫn mềm lòng vì nam nhân như thường. Nhưng phải là nam nhân có tình cảm trong sáng, không chút tà niệm.
Được một lần điểm hóa qua mối tình Dương-Long mà vẫn chưa tỉnh ngộ bỏ ác hành thiện
Cho nên, khi Lý Mạc Sầu chĩa kiếm vào cổ Tiểu Long Nữ, Dương Quá nhào ra đòi chết thay thì Lý Mạc Sầu cảm động lắm. Trong phái Cổ Mộ có một lời nguyền của sư tổ Lâm Triều Anh rằng: Phàm là người đã được truyền y bát như Tiểu Long Nữ thì suốt đời không được ra khỏi nhà mồ “Hoạt tử nhân mộ”, trừ khi có một nam tử cam tâm tình nguyện chết thay, thì lời thề coi như được xóa bỏ. Có điều là không được cho nam tử biết trước điều đó. Lâm Triều Anh cho rằng mọi nam tử trên thế gian đều vô ân bạc tình, anh hùng hiệp nghĩa như Vương Trùng Dương còn thế, huống hồ kẻ khác? Chắc chắn không thể có một nam tử nào cam tâm tình nguyện chết thay cho người mình yêu; giả dụ có được một nam tử như thế, thì đệ tử đời sau của Lâm Triều Anh có theo nam tử đó xuống núi cũng không uổng phí một đời. Hóa ra Lâm Triều Anh cũng là người đau khổ vì tình, truyền đến đời các nữ đệ tử cũng thế. Lý Mạc Sầu thấy Tiểu Long Nữ có người cam tâm chịu chết thay thì lại thấy cám cảnh cho thân phận mình.
Lại khi nhìn thấy vết son thủ cung sa trên tay Tiểu Long Nữ vẫn còn nguyên, một dấu hiệu trinh nguyên của Tiểu Long Nữ, thì Lý Mạc Sầu rất thán phục. Mụ cảm phục vì mối tình trong sáng không gợn chút dục tính của Dương Quá và Tiểu Long Nữ trong ngôi nhà mồ chỉ có hai người “trai đang lớn, gái đương thì” với nhau.
Nhưng chứng kiến cặp Dương – Long sống với nhau chí tình đến thế, vẫn không khiến cho mụ “buông con dao sát thủ xuống” với đời. Họ Lý mê đã quá sâu.
Vì ái tình mà hỉ nộ thất thường, Lý Mạc Sầu thật đáng thương
Nhưng điều gì nhắc tới người tình xưa cũng khiến mụ lúc trào sôi căm hận, lúc lại luyến ái bi thương. Biết vậy nên phút lâm chung, hai vợ chồng người em trai là Lục Lập Đỉnh đã cậy người xé chiếc khăn tay mà Lý Mạc Sầu thêu tặng Lục Triển Nguyên thuở hai người còn nồng thắm làm hai nửa, đưa cho con gái Lục Vô Song và cháu gái Trình Anh. Lý Mạc Sầu toan hạ sát hai đứa nhỏ, nhìn thấy mảnh khăn, nhớ lại thuở yêu đương mặn nồng chàng chàng thiếp thiếp, cánh tay giơ lên lại không nỡ hạ xuống.
Lại như khi Lý Mạc Sầu thấy ba người Dương Quá, Trình Anh, Lục Vô Song đã nằm trong tay mình rồi, không chạy đi đâu được thì họ lại coi cái chết như không, kẻ đàn người hát khúc Lưu Ba. Đây là khúc nhạc mụ vẫn hòa tấu cùng ái lữ Lục Triển Nguyên. “Đấy là chuyện hai mươi năm trước, bây giờ âm vận thì vẫn như cũ, nhưng đã là “trăng gió vô tình người đổi dạ,” tai nghe tiếng tiêu hòa với lời ca, vô cùng vương vấn, đột nhiên đau đớn hết chịu nổi, liền khóc tướng lên” (2). Lý Mạc Sầu vì tình mà hỉ nộ thất thường, thực ra đã hoàn toàn bị ma tình dẫn động.
Khi bắt được ba người rồi, lại thấy họ cười cười nói nói với nhau rằng họ xuống suối vàng bên nhau còn hạnh phúc gấp chục lần “con mụ độc ác kia”, thì mụ thay đổi ý định. Lý Mạc Sầu đâu có lấy giết người làm niềm vui. Mụ chỉ muốn con người kia, cuộc đời kia đã phụ bạc mụ phải nếm trải nỗi đau đớn như mụ, có chết cũng không trốn được điều ấy. Thế là mụ lại giở bài Mô Ngư Nhi ra mà hát với tiếng ca “khi nghẹn ngào khi nức nở, như oan hồn nỉ non trong đêm” (3). Là người thường, ai chẳng có ái tình, ai chẳng có lúc vì ái tình mà đau khổ. Nên ba người dần đi đến chỗ hết chịu nổi.
Ít nhiều người ta đều bị ái tình dẫn động, chỉ trừ một tâm hồn thơ trẻ
Nhưng có một người mà ái tình không thể động đến chân tâm. Đó là Khúc Cô, con gái của Khúc Linh Phong, đệ tử của Đông Tà Hoàng Dược Sư. Khúc Cô từ nhỏ gặp biến cố đã bị mất trí, nên tuổi đã lớn vẫn hồn nhiên như đứa trẻ lên ba. Khúc Cô đột nhiên xuất hiện hát mấy bài: “cô dâu chú rể, đội rế lên đầu…”, hát hết bài đó lại sang “chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa”, rồi lại “một ông sao sáng, hai ông sáng sao”, có khi nhớ lộn chữ nọ sang chữ kia. Giọng ca vui nhộn của Khúc Cô, một cách không cố ý, đã phá hoại màn diễn bi ca của Lý Mạc Sầu, giải vây cho ba người Dương, Lục, Trình.
Điểm hóa lần thứ 2 với tình mẫu tử khơi gợi chút thiện còn sót lại
Nhưng con người hiếu sát tàn nhẫn ấy vẫn chưa mất hết nhân tính. Khi cướp được Quách Tương mới vài ngày tuổi, mụ tưởng đó là con của Dương Quá và Tiểu Long Nữ. Nên mụ quyết giữ để buộc cặp đôi này giao bí kíp “Ngọc Nữ tâm kinh” của phái Cổ Mộ. Hóa ra Quách Tương là con của Hoàng Dung – Quách Tĩnh. Nhưng chính bé Quách Tương xinh xắn trong trẻo mới khơi gợi được tình mẫu tử và nhân tính của Lý Mạc Sầu. “Lý Mạc Sầu sau khi cướp được đứa bé, liền ẩn cư trong thâm sơn, lấy việc dưỡng nhi làm vui, ngày ngày buộc con báo cho Quách Tương bú sữa. Mụ một đời tác ác đa đoan, song cũng không phải là bẩm tính tàn ác, mà sau khi tình trường thất ý, đâm ra căm phẫn thế tục. Quách Tương kiều mỹ khả ái, cuối cùng khơi gợi mẫu tính bẩm sinh nơi Lý Mạc Sầu, có đêm mụ nghĩ, dẫu Tiểu Long Nữ có đem “Ngọc nữ tâm kinh” đến đổi, mụ cũng chưa chắc giao trả đứa bé. Lúc này nghe Hoàng Dung xin ẵm đứa bé, Lý Mạc Sầu như một người mẹ nghe người khác khen con mình, vui sướng trao con cho họ”.(4) Và cây phất trần đã lấy mạng bao nhiêu nhân sĩ võ lâm đã trở thành công cụ đuổi ruồi cho Quách Tương ngủ. Đó là một đoạn đời hạnh phúc của Lý Mạc Sầu mà một tình cảm trong sáng tuyệt đẹp là tình mẫu tử nảy nở trong lòng mụ đã tạm xua tan bóng ma u ám của tình cũ.
Ai ơi, xin hãy trông gương Lý Mạc Sầu, đừng để chữ Tình làm mù quáng
Ở Tuyệt Tình Cốc có một loại hoa tên là hoa Tình. Ai trúng gai của nó mà nghĩ đến tình ái thì đau đớn không chịu nổi. Lý Mạc Sầu đã trúng gai độc của hoa Tình trong những ngày cuối của cuộc đời mụ, người duy nhất là Thần tăng Thiên Trúc có thể chữa thuốc cho mụ thì đã bị mụ giết mất. Nhưng thực ra, như Hoàng Dung đã nói: “Kỳ thực, chất độc hoa Tình tỷ tỷ có trúng hay không trúng cũng vậy cả thôi… Lý tỷ tỷ sớm đã bị trúng độc si tình, làm loạn thế gian, hại người hại mình, lúc này đã muộn mất rồi”(5).
Đến bí mật cuối đời của mụ còn làm người ta ghê sợ: Đào thi thể của tình phụ Lục Triển Nguyên và tình địch Hà Nguyên Quân đem đốt thành tro, rồi mang tro một người rải ở đỉnh Hoa Sơn, người kia thì ở Biển Đông để hai người ấy vĩnh viễn không thể tái hợp. Còn có mối hận tình nào kinh khủng hơn thế?
Kỳ thực, nam nữ có tình là vì có duyên. Có duyên thì đến, hết duyên thì đi. “Còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên đi sớm về trưa một mình”. Nó đâu phụ thuộc vào tâm cưỡng cầu của người trong cuộc. Ẩn sâu trong mối hận tình của Lý Mạc Sầu còn là sự hiếu thắng, là tâm tranh đấu. Mụ nghĩ mình tài giỏi đẹp đẽ lại phải thua người trong tình trường nên không cam lòng. Thế là, trong khi bao nhiêu người rốt cuộc đã giải được nọc độc của mối tình lầm lỡ vào lúc cuối đời như: Châu Bá Thông, Anh Cô, Nhất Đăng đại sư… đến cả Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận cuối cùng cũng yên lòng nhắm mắt… thì đến phút cuối cuộc đời “Lý Mạc Sầu vẫn hiên ngang đứng trong biển lửa, không lý gì đến tiếng gọi. Thoáng chốc, lửa đã trùm kín người mụ. Đột nhiên từ trong lửa vọng ra tiếng ca thê lương: Tình là chi hỡi thế gian, câu thề sinh tử đa mang một đời… Đến chữ “đời” thì tiếng ca tắt lặng”(6). Lửa có thể thiêu cháy thân xác mụ, nhưng không thể thiêu cháy mối thù của mụ. Và mụ đã ôm nó theo xuống tuyền đài. Chắc ở dưới đó, ba người Lục, Hà, Lý vẫn tiếp tục hục hặc với nhau vì hai chữ “yêu” và “hận”…
Chú thích: (1), (2), (3), (4), (5), (6): Trích Thần Điêu Hiệp Lữ, bản dịch của Lê Khánh Trường
Nguồn Gốc Câu ‘Hỡi Thế Gian Tình Là Chi’ Của Lý Mạc Sầu
“Hỡi thế gian tình là chi, mà đôi lứa hẹn thề sống chết” thường gợi nhớ nhân vật Lý Mạc Sầu trong tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung (1924-2018). Đến nay, câu này vẫn được nhiều người sử dụng mỗi khi nói về tình yêu. Theo Sina, vì sự phổ biến của tiểu thuyết Thần điêu đại hiệp cũng như hàng chục tác phẩm chuyển thể phim ảnh, nhiều người lầm tưởng câu trên là sáng tác của Kim Dung.
“Hỡi thế gian tình là chi, mà đôi lứa hẹn thề sống chết” vốn thuộc bài từ trong tác phẩm Mô ngư nhi – nhạn khâu của nhà văn Nguyên Hiếu Vấn (1190-1257) ở cuối nhà Kim đầu nhà Nguyên. Nguyên Hiếu Vấn là nhà văn, nhà sử học đạt thành tựu cao nhất thời đại của ông. Hiện còn hơn 1.300 bài thơ của Nguyên Hiếu Vấn được lưu truyền cùng hơn 380 bài từ, 250 tản văn.
Theo QQ, cảm hứng để Nguyên Hiếu Vấn viết bài từ đến từ lần ông đi ứng thí, trên đường gặp một thợ săn, người này kể cho ông câu chuyện một đôi chim nhạn lớn bay trên trời, người này bắt giết một con. Con còn lại lao xuống đất chết. Nhà thơ, lúc đó mới 16 tuổi, xúc động vì câu chuyện, mua xác hai con chim chôn cùng nhau, còn làm bia mộ cho chúng. Sau đó, ông sáng tác bài từ.
“Hỡi thế gian tình là chi mà khiến đôi lứa hẹn thề sống chết. Trước đây trời Nam đất Bắc, nắng mưa gió rét vẫn có nhau. Trải qua thời gian bên nhau đẹp đẽ, ly biệt thật đau lòng. Chung quy vì si tình như đôi nam nữ. Hãy nói cho ta, từ nay sớm chiều qua ngàn núi tuyết, lẻ bóng đơn độc, biết đi đâu về đâu”, tác giả bày tỏ sự thương cảm với tình yêu của đôi chim nhạn trong tác phẩm.
Trong tiểu thuyết Thần điêu đại hiệp, Lý Mạc Sầu là đệ tử đời thứ ba của phái Cổ Mộ, sư tỉ của Tiểu Long Nữ. Lý Mạc Sầu vốn xinh đẹp, có tình yêu sâu đậm với Lục Triển Nguyên. Nàng chấp nhận vứt bỏ trinh bạch, lễ giáo vì Lục nhưng chàng bội ước, lấy kẻ khác làm vợ. Cuộc tình tan vỡ khiến Lý Mạc Sầu trở thành kẻ lạnh lùng, tàn độc, nuôi ý trả thù cả gia đình họ Lục. Mạc Sầu hứa xóa bỏ hận thù nếu Lục Triển Nguyên giết vợ. Nhờ một đại tăng ngăn cản, Lý Mạc Sầu cho đôi vợ chồng sống bình yên 10 năm. Hết thời hạn, Lý Mạc Sầu quay lại “đòi nợ” song Lục Triển Nguyên đã qua đời, vợ chết theo chàng. Trong truyện, mỗi lần xuất hiện, Lý Mạc Sầu đều đọc câu “Hỡi thế gian tình là chi, mà đôi lứa hẹn thề sống chết”.
Tình yêu là đề tài xuyên suốt tác phẩm của Kim Dung, muôn hình vạn trạng. Nhà văn, nhà phê bình Hong Kong Ngô Ái Nghi – người được mệnh danh “Đệ nhất tài nữ Hương Giang” – từng phát hành cuốn sách Tình trong tiểu thuyết Kim Dung, phân tích giá trị tư tưởng, nghệ thuật trong các tiểu thuyết của ông. Bà nhận xét tình tiết ly kỳ trong tiểu thuyết khiến khán giả say mê theo dõi tới cuối truyện còn tình yêu trong tác phẩm làm người xem cảm động, nghiền ngẫm, khiến độc giả đọc đi đọc lại. Lý Mạc Sầu với mối hận tình trong Thần điêu đại hiệp là một điển hình gây nhức nhối, khó quên, theo Xinhua.
Như Anh
Phim “Kim Bình Mai” Dung Tục Khác Xa Bản Gốc Khiến Ai Cũng Bất Ngờ
Đây là một trong những cuốn tiểu thuyết được quan tâm và gây tranh cãi trong suốt nhiều năm qua. Không chỉ vậy, đây cũng là cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành nhiều bộ phim trong lịch sử điện ảnh Trung Quốc.
Hàng loạt bộ phim chuyển thể hoặc nói về các nhân vật trong tiểu thuyết, tiêu biểu như Phan Kim Liên – kiếp trước, kiếp này (1989), Hận tỏa Kim Bình (1991), Thiếu nữ Phan Kim Liên (1994), Kim Bình tuế nguyệt, Mối hận Kim Bình (1994), Tân Kim Bình Mai (1996), Kim Bình Mai (2009), Tân Kim Bình Mai 3D,…
Khán giả bị cuốn theo những tình tiết trong phim mà không hề biết rằng bộ phim đã được phóng tác với nhiều nét khác biệt so với nguyên tác Kim Bình Mai.
Bộ tiểu thuyết Kim Bình Mai dài 100 hồi.
Tuy nhiên trong tiểu thuyết Kim Bình Mai, các nhân vật được khắc họa rõ nét, chỉ từ những câu chuyện vụn vặt, nhỏ nhặt trong cuộc sống bình thường mà làm nổi bật lên được diễn biến tâm lý nhân vật.
Đặc biệt, Kim Bình Mai còn trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết có ảnh hưởng lớn cho thế hệ sau. Những tác phẩm như Nho lâm ngoại sử hay Hồng Lâu mộng đều tham khảo, học tập từ nó.
Tác phẩm không ít lần miêu tả cuộc sống hưởng lạc đồi trụy của Tây Môn Khánh. Những chi tiết diễn tả sinh động đến mức tiểu thuyết này từng bị coi là sách khiêu dâm (dâm thư) và bị cấm.
Khi lên phim, Kim Bình Mai bị gắn mác phim 18+ bởi những cảnh khiến người xem phải đỏ mặt. Những cảnh nóng bị lạm dụng khai thác, cùng với trang phục hở hang khiến các bộ phim trở nên dung tục.
Các nhân vật trong tiểu thuyết Kim Bình Mai.
Trong Tân Kim Bình Mai (1996) hợp tác giữa truyền hình Đài Loan và Hong Kong xuất hiện vô số cảnh nóng như trong phim người lớn. Những cảnh “mây mưa” của Tây Môn Khánh và Phan Kim Liên liên tục đập vào mắt khán giả gây cảm giác đang xem một bộ phim cấp 3, không còn tính nghệ thuật. Thậm chí, diễn viên còn không ngại ngần khỏa thân để những cảnh quay có thể chân thực. Đến nay, bộ phim này vẫn được nhận xét là một tác phẩm nổi bật của dòng phim 18+ Hong Kong.
Nhân vật chính được “mặc định” sai lệch
Trong nguyên tác, tác giả chú trọng khắc họa 3 nhân vật chính là Tây Môn Khánh, Phan Kim Liên và Lý Bình Nhi. Đặc biệt, Tây Môn Khánh là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm.
Thế nhưng khi lên phim, vai phản diện Tây Môn Khánh dường như bị lu mờ và không ít khán giả còn cho rằng Phan Kim Liên hay Võ Tòng mới là nhân vật chính.
Cảnh nóng của Tây Môn Khánh và Phan Kim Liên trong Mối hận Kim Bình.
Tây Môn Khánh là kẻ lang bạt giang hồ, biết xu nịnh, cậy quyền cậy thế trở thành cường hào bá chủ một phương, dục vọng vô cùng của y là tiền tài và đàn bà. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Tây Môn Khánh là đại biểu cho thế lực phong kiến hợp nhất trong mình cả ba vai quan liêu, ác bá, phú thương, đặc biệt là đã phản ánh đặc trưng của thương nhân mới phất lên dưới triều nhà Minh.
Phan Kim Liên do Dương Tư Mẫn thể hiện được nhận xét là sexy nhất. Nữ diễn viên cũng không ngại khỏa thân để diễn cảnh nóng táo bạo.
Khi chuyển thể sang phim, Tây Môn Khánh cũng được khắc họa là một tên dâm đãng. Đan Lập Văn – người 5 lần thủ vai Tây Môn Khánh đã xây dựng hình ảnh tên công tử hào hoa, bảnh chọe, hoang dâm vô độ, “ai gặp cũng ghét”.
Nhưng Tây Môn Khánh trong Thủy Hử (1997) do diễn viên Lý Cường đóng lại mang đến cho khán giả cách nhìn mới về nhân vật này. Khác hẳn với phiên bản “chỉ nhìn là đã biết dâm đãng” của Đan Lập Văn, Lý Cường hóa thân thành một Tây Môn Khánh khá “hiền lành”.
Trong khi đó, phiên bản Tây Môn Khánh do Đỗ Thuần thể hiện trong Tân Thủy Hử 2011 cũng có nhiều điểm khác biệt. Không chỉ đơn thuần là một kẻ đam mê dục vọng mà nhân vật này còn có thêm tính lãng tử, dịu dàng và chu đáo và tận tâm với người tình.
Trong khi đó, nhân vật Phan Kim Liên trong nguyên tác được miêu tả là một người vô cùng xinh đẹp. 13 tuổi đã giỏi âm nhạc, khéo trang điểm, rành nữ công gia chánh, thông thạo viết chữ, đọc được sách, cử chỉ yểu điệu, biết quyến rũ người khác…
Ôn Bích Hà là một trong những diễn viên thể hiện thành công vai diễn Phan Kim Liên.
Phan Kim Liên cũng không hề tỏ ra thua kém việc “ông ăn chả bà ăn nem”. Khi biết chồng ra ngoài tằng tịu với gái, ở nhà ả liền thông dâm với thằng hầu Tiểu Tư.
Trên tiểu thuyết xây dựng là vậy nhưng mỗi bộ phim lại xây dựng một hình ảnh Phan Kim Liên với những nét khác nhau. Nếu như Ôn Bích Hà trong Mối hận Kim Bình quyến rũ từ dáng đi, cử chỉ, cái liếc mắt đưa tình thì phiên bản Phan Kim Liên của Dương Tư Mẫn lại khiến người xem liên tưởng đến một hình tượng phồn thực sexy đúng nghĩa.
Là diễn viên phim 18+ nên việc hóa thân vào vai Phan Kim Liên không một chút khó khăn nào đối với mỹ nhân người Hoa gốc Nhật Dương Tư Mẫn (Asami Kanno). Trong phim Kim Bình Mai, cô đã khoe hết vẻ đẹp hình thể, đặc biệt là vòng 1 căng đầy.
Vai Phan Kim Liên của Vương Tư Ý có nhiều khác biệt với bản gốc và các phiên bản phim ảnh khác
Trái ngược hoàn toàn với hình ảnh đó, Phan Kim Liên trong phim Thủy Hử (1997) do Vương Tư Ý thể hiện lại giành được không ít thiện cảm lẫn thương cảm hơn là ghét. Ánh mắt biết nói đầy ưu tư giúp Vương Tư Ý thể hiện đầu đủ tính cách khi thì dịu dàng, cô độc, khi lại sắc lạnh lẳng lơ. Đặc biệt, phiên bản này cũng được nhận xét không quá hoang dâm như trong các bộ phim khác.
Lý Bình Nhi trong Mối hận Kim Bình (1994).
Một nhân vật khác cũng có nhiều chênh lệch giữa tác phẩm gốc và trên phim ảnh là Lý Bình Nhi. Trong nguyên tác đây là một người phụ nữ vừa máu lạnh, độc ác, dâm tà, nhiều mưu tính. Sau khi chồng chết, ngay lập tức vào nhà Tây Môn làm vợ thứ sáu. Ả còn đem theo rất nhiều gia sản của nhả nhà chồng cũ.
Trên màn ảnh, các diễn viên chưa thể hiện hết được tính cách đa chiều của nhân vật này. Bình Nhi trở thành một người thẳng thắn, thông minh, đáng yêu, giữ đúng đạo, bị Tây Môn Khánh ép làm vợ lẽ và nhận được nhiều sự thương cảm của người xem.
Nhiều khán giả chỉ xem phim mà chưa biết nguyên tác, tới khi đọc truyện đều phải ngã ngửa khi các nhân vật được yêu thích khác hẳn trong phim (Ảnh: Dàn diễn viên “Mối hận Kim Bình”)
Ngoài ra, trong Kim Bình Mai có nhân vật Xuân Mai được mô tả là đa mưu, nhiều kế, lẳng lơ…Thế nhưng khi lên phim, vai diễn này trở thành một nha hoàn tốt bụng, trung thành với chủ.
Tên Con Nguyễn Kim Dung Có Ý Nghĩa Là Gì
Về thiên cách tên Nguyễn Kim Dung
Thiên Cách là đại diện cho mối quan hệ giữa mình và cha mẹ, ông bà và người trên. Thiên cách là cách ám chỉ khí chất của người đó đối với người khác và đại diện cho vận thời niên thiếu trong đời.
Thiên cách tên Nguyễn Kim Dung là Nguyễn, tổng số nét là 7 và thuộc hành Dương Kim. Do đó Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn là quẻ CÁT. Đây là quẻ có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.
Xét về địa cách tên Nguyễn Kim Dung
Ngược với thiên cách thì địa cách đại diện cho mối quan hệ giữa mình với vợ con, người nhỏ tuổi hơn mình và người bề dưới. Ngoài ra địa cách còn gọi là “Tiền Vận” ( tức trước 30 tuổi), địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận tuổi mình.
Địa cách tên Nguyễn Kim Dung là Kim Dung, tổng số nét là 11 thuộc hành Dương Mộc. Do đó địa cách sẽ thuộc vào quẻ Vạn tượng canh tân là quẻ ĐẠI CÁT. Đây là quẻ dị quân đột khởi, âm dương điều hòa, tái hưng gia tộc, phồn vinh phú quý, tử tôn đẹp đẽ. Là điềm tốt toàn lực tiến công, phát triển thành công.
Luận về nhân cách tên Nguyễn Kim Dung
Nhân cách là chủ vận ảnh hưởng chính đến vận mệnh của cả đời người. Nhân cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Nhân cách là nguồn gốc tạo vận mệnh, tích cách, thể chất, năng lực, sức khỏe, hôn nhân của gia chủ, là trung tâm của họ và tên. Muốn tính được Nhân cách thì ta lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên.
Nhân cách tên Nguyễn Kim Dung là Nguyễn Kim do đó có số nét là 10 thuộc hành Âm Thủy. Như vậy nhân cách sẽ thuộc vào quẻ Tử diệt hung ác là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ dị quân đột khởi, âm dương điều hòa, tái hưng gia tộc, phồn vinh phú quý, tử tôn đẹp đẽ. Là điềm tốt toàn lực tiến công, phát triển thành công.
Về ngoại cách tên Nguyễn Kim Dung
Ngoại cách là đại diện mối quan hệ giữa mình với thế giới bên ngoài như bạn bè, người ngoài, người bằng vai phải lứa và quan hệ xã giao với người khác. Ngoại cách ám chỉ phúc phận của thân chủ hòa hợp hay lạc lõng với mối quan hệ thế giới bên ngoài. Ngoại cách được xác định bằng cách lấy tổng số nét của tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách.
Tên Nguyễn Kim Dung có ngoại cách là Dung nên tổng số nét hán tự là 8 thuộc hành Âm Kim. Do đó ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ Kiên nghị khắc kỷ là quẻ BÁN CÁT BÁN HUNG. Đây là quẻ dị quân đột khởi, âm dương điều hòa, tái hưng gia tộc, phồn vinh phú quý, tử tôn đẹp đẽ. Là điềm tốt toàn lực tiến công, phát triển thành công.
Luận về tổng cách tên Nguyễn Kim Dung
Tổng cách là chủ vận mệnh từ trung niên về sau từ 40 tuổi trở về sau, còn được gọi là “Hậu vận”. Tổng cách được xác định bằng cách cộng tất cả các nét của họ và tên lại với nhau.
Do đó tổng cách tên Nguyễn Kim Dung có tổng số nét là 17 sẽ thuộc vào hành Âm Mộc. Do đó tổng cách sẽ thuộc quẻ Cương kiện bất khuất là quẻ CÁT. Đây là quẻ quyền uy cương cường, ý chí kiên định, khuyết thiếu hàm dưỡng, thiếu lòng bao dung, trong cương có nhu, hóa nguy thành an. Nữ giới dùng số này có chí khí anh hào.
Quan hệ giữa các cách tên Nguyễn Kim Dung
Số lý họ tên Nguyễn Kim Dung của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Âm Thủy” Quẻ này là quẻ Tính thụ động, ưa tĩnh lặng, đơn độc, nhạy cảm, dễ bị kích động. Người sống thiên về cảm tính, có tham vọng lớn về tiền bạc, công danh.
Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Âm Thủy – Dương Mộc” Quẻ này là quẻ Kim Thủy Mộc: Được thừa hưởng ân đức của tổ tiên hoặc được cấp trên giúp đỡ nên sự nghiệp có được thành công bất ngờ, tuy nhiên gia đình bất hạnh hoặc ốm yếu, đoản mệnh (hung).
Kết quả đánh giá tên Nguyễn Kim Dung tốt hay xấu
Như vậy bạn đã biêt tên Nguyễn Kim Dung bạn đặt là tốt hay xấu. Từ đó bạn có thể xem xét đặt tên cho con mình để con được bình an may mắn, cuộc đời được tươi sáng.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bình Kim Dung (Kỳ 4): Lý Mạc Sầu trên website Welovelevis.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!