Đề Xuất 3/2023 # Đặt Tên Con Gái Theo Phật Giáo # Top 5 Like | Welovelevis.com

Đề Xuất 3/2023 # Đặt Tên Con Gái Theo Phật Giáo # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đặt Tên Con Gái Theo Phật Giáo mới nhất trên website Welovelevis.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tên gắn liền với vận mệnh con trẻ

1. Đặt tên cho con gái hay theo vần A

Ái Hồng: Cô gái nhỏ dễ thương.

Ái Nhi: Con gái nhỏ luôn được yêu thương.

An Bình: Mẹ mong con luôn bình an.

An Nhàn: Mẹ mong con có một cuộc sống êm đềm.

Ánh Dương: Con sáng chói như vầng mặt trời.

Ánh Ngọc: Con đẹp như một viên ngọc.

Anh Thi: Cô gái nhỏ yêu kiều.

Anh Thư: Con là một cô gái mạnh mẽ.

Ngọc Anh: Bé là viên ngọc trong sáng, quý giá tuyệt vời của bố mẹ

Nguyệt Ánh: Bé là ánh trăng dịu dàng, trong sáng, nhẹ nhàng

Diệu Anh: Con gái khôn khéo của mẹ ơi, mọi người sẽ yêu mến con

Quỳnh Anh: Người con gái thông minh, duyên dáng như đóa quỳnh

Trâm Anh: Con thuộc dòng dõi quyền quý, cao sang trong xã hội.

2. Đặt tên cho con gái theo vần B – C

Bạch Cúc: Đóa cúc trắng bình dị.

Bạch Loan: Con là cô gái xinh đẹp thanh cao.

Bạch Tuyết: Con xinh đẹp như công chúa trong chuyện cổ tích.

Băng Băng: Con thật kiêu sa.

Bảo Châu: Viên ngọc quý của mẹ.

Bảo Lan: Loài hoa quý.

Bảo Quyên: Con chim quý.

Bảo Tiên: Cô gái quý giá và xinh đẹp của mẹ.

Bảo Uyên: Cô gái đài các, uyên bác và duyên dáng.

Bích Chiêu: Con hội tụ nét đẹp như một viên ngọc bích.

Bích Hà: Dòng sông màu ngọc bích.

Bích Hợp: Người con gái dịu dàng.

Bích Loan: Người con gái kiêu kỳ.

Bích Ngọc: Con là viên ngọc quý.

Bích Quyên: Con chim màu ngọc bích.

Bích Thu: Mùa thu màu ngọc bích.

Gia Bảo: Bé là “tài sản” quý giá nhất của bố mẹ, của gia đình

Ngọc Bích: Bé là viên ngọc trong xanh, thuần khuyết

Minh Châu: Bé là viên ngọc trai trong sáng, thanh bạch của bố mẹ

Bảo Châu: Bé là viên ngọc trai quý giá

Kim Chi: “Cành vàng lá ngọc” là câu nói để chỉ sự kiều diễm, quý phái.

Cẩm Hiền: Người con gái hiền thục.

Cẩm Ly: Con là món đồ quý giá.

Cẩm Thúy: Con chim quý.

Cát Cát: Con luôn gặp may mắn trên đường đời.

Chi Lan: Nhành hoa lan.

3. Đặt tên con gái theo vần D-H

Tên con gái từ vần D -H

Dã Lâm: Con như một khu rừng bí ẩn và quyến rũ.

Dã Thảo: Hồn nhiên như cỏ.

Đài Trang: Cô gái đài cát và đoan trang.

Đan Thanh: Người con gái có nét thanh tao.

Diễm Châu: Con là viên ngọc sáng.

Diễm Hương: Mùi hương tràn đầy.

Diễm Thảo: Loài cỏ đẹp.

Diễm Trinh: Cô gái trinh trắng.

Diệp Vy: Cây lá xinh đẹp.

Diệu Hương: Hương thơm kỳ diệu.

Diệu Nương: Cô gái tuyệt diệu.

Đông Đào: Hoa đào nở trong mùa đông.

Đông Trà: Hoa trà trong mùa đông.

Duy Mỹ: Con là một cô gái yêu cái đẹp.

Duyên Mỹ: Xinh đẹp và duyên dáng.

Ngọc Diệp: là Lá ngọc, thể hiện sự xinh đẹp, duyên dáng, quý phái của cô con gái yêu

Mỹ Duyên: Đẹp đẽ và duyên dáng là điều bạn đang mong chờ ở con gái yêu đó.

Nguyệt Cát: Hạnh phúc cuộc đời con sẽ tròn đầy

Trân Châu: Con là chuỗi ngọc trai quý của bố mẹ

Quế Chi: Cành cây quế thơm và quý

Trúc Chi: Cành trúc mảnh mai, duyên dáng

Xuyến Chi: Hoa xuyến chi thanh mảnh, như cây trâm cài mái tóc xanh

Thiên Di: Cánh chim trời đến từ phương Bắc

Ngọc Diệp: Chiếc lá ngọc ngà và kiêu sa

Nghi Dung: Dung nhan trang nhã và phúc hậu

Linh Đan: Con nai con nhỏ xinh của mẹ ơi

Thục Đoan: Hãy là cô gái hiền hòa đoan trang

Đặt tên cho con gái theo vần G – K

Gia Linh: Con là điều tốt lành của gia đình.

Giang Thanh: Dòng sông màu xanh.

Giao Linh: Điều tốt lành luôn đến với con.

Hà My: Hàng lông mày đẹp.

Hà Thanh: Dòng sông xanh.

Hạ Vy: Mùa hạ dịu dàng.

Hải Châu: Viên ngọc của biển.

Hải My: Cô gái nhỏ mà mạnh mẽ.

Hải Phương: Hướng về phía biển.

Hải Thanh: Biển xanh.

Thanh Hà: Dòng sông trong xanh, thuần khiết, êm đềm, đây là điều bố mẹ ngụ ý cuộc đời bé sẽ luôn hạnh phúc, bình lặng, may mắn.

Hải Vy: Bông hoa giữa biển.

Hàm Thơ: Cô gái đầy ý thơ.

Hạnh Dung: Dung mạo hạnh phúc.

Hạnh Phương: Đi về phía hạnh phúc.

Hạnh Vi: Luôn làm điều hạnh phúc.

Hiền Mai: Bông hoa mai hiền thục.

Hiểu Vân: Đám mây buổi sáng.

Họa Mi: Con sẽ hát hay như chú chim họa mi.

Hoài Giang: Dòng sông thương nhớ.

Hoài Trang: Món trang sức đẹp mãi.

Hoàng Hà: Dòng sông vàng.

Hoàng Miên: Cây thảo miên vàng.

Hoàng Yến: Chim hoàng yến.

Hồng Đào: Ngon như quả hồng đào.

Hồng Hạnh: Cuộc đời con có phúc lớn và đức hạnh.

Gia Hân: Cái tên của bé không chỉ nói lên sự hân hoan, vui vẻ mà còn may mắn, hạnh phúc suốt cả cuộc đời

Bé như một bông hoa bằng ngọc, đẹp đẽ, sang trọng, quý phái

Ngọc Hoa: Bé như một bông hoa bằng ngọc, đẹp đẽ, sang trọng, quý phái.

Lan Hương: Nhẹ nhàng, dịu dàng, nữ tính, đáng yêu

Quỳnh Hương: Giống như mùi hương thoảng của hoa quỳnh, cái tên có sự lãng mạn, thuần khiết, duyên dáng

Hồng Khuê: Viên ngọc nhiều hồng phúc.

Hồng Như: Nhiều hồng phúc.

Hồng Phương: Đi về phía hạnh phúc.

Hồng Thảo: Cỏ hạnh phúc.

Huệ An: Ơn huệ từ trời cao, mẹ mong con bình an.

Huệ Lâm: Rừng cây nhân ái.

Huệ Phương: Về phía ân huệ.

Hương Lâm: Khu rừng mùi hương.

Hương Mai: Hương hoa mai.

Hương Thủy: Dòng nước thơm.

Hương Xuân: Hương thơm mùa xuân.

Huyền Ngọc: Viên ngọc huyền diệu.

Huyền Trâm: Trâm Anh, huyền diệu.

Khả Ái: Con là cô gái xinh đẹp, khả ái.

Vân Khánh: Cái tên xuất phát từ câu thành ngữ “Đám mây mang lại niềm vui”, Vân Khánh là cái tên báo hiệu điềm mừng đến với gia đình.

Ngọc Khuê: Một loại ngọc trong sáng, thuần khiết

Diễm Kiều: Vẻ đẹp kiều diễm, duyên dáng, nhẹ nhàng, đáng yêu.

Thiên Kim: Xuất phát từ câu nói “Thiên Kim Tiểu Thư” tức là “cô con gái ngàn vàng”, bé yêu của bạn là tài sản quý giá nhất của cha mẹ đó.

5. Đặt tên cho con gái theo vần L – T

Ngọc Lan: Cành lan ngọc ngà của bố mẹ

Mỹ Lệ: Cái tên gợi nên một vẻ đẹp tuyệt vời, kiêu sa đài các.

Kim Liên: Với ý nghĩa là bông sen vàng, cái tên tượng trưng cho sự quý phái, thuần khiết.

Gia Linh: Cái tên vừa gợi nên sự tinh anh, nhanh nhẹn và vui vẻ đáng yêu của bé đó.

Thanh Mai: xuất phát từ điển tích “Thanh mai trúc mã”, đây là cái tên thể hiện một tình yêu đẹp đẽ, trong sáng và gắn bó, Thanh Mai cũng là biểu tượng của nữ giới.

Tuệ Mẫn: Cái tên gợi nên ý nghĩa sắc sảo, thông minh, sáng suốt.

Nguyệt Minh: Bé như một ánh trăng sáng, dịu dàng và đẹp đẽ.

Diễm My: Cái tên thể hiện vẻ đẹp kiều diễm và có sức hấp dẫn vô cùng.

Kim Ngân: Bé là “tài sản” lớn của bố mẹ.

Bảo Ngọc: Bé là viên ngọc quý của bố mẹ.

Khánh Ngọc: Vừa hàm chứa sự may mắn, lại cũng có sự quý giá

Thu Nguyệt: Trăng mùa thu bao giờ cũng là ánh trăng sáng và tròn đầy nhất, một vẻ đẹp dịu dàng

Hiền Nhi: Con luôn là đứa trẻ đáng yêu và tuyệt vời nhất của cha mẹ

Hồng Nhung: Con như một bông hồng đỏ thắm, rực rỡ và kiêu sa

Kim Oanh: Bé có giọng nói “oanh vàng”, có vẻ đẹp quý phái

Diễm Phương: Một cái tên gợi nên sự đẹp đẽ, kiều diễm, lại trong sáng, tươi mát

Bảo Quyên: Quyên có nghĩa là xinh đẹp, Bảo Quyên giúp gợi nên sự xinh đẹp quý phái, sang trọng

Ngọc Quỳnh: Bé là viên ngọc quý giá của bố mẹ

Ngọc Sương: Bé như một hạt sương nhỏ, trong sáng và đáng yêu

Mỹ Tâm: Không chỉ xinh đẹp mà còn có một tấm lòng nhân ái bao la.

Phương Thảo: “Cỏ thơm” đó đơn giản là cái tên tinh tế và đáng yêu

Hiền Thục: Hiền lành, đảm đang, giỏi giang, duyên dáng là những điều nói lên từ cái tên này

Bích Thủy: Dòng nước trong xanh, hiền hòa là hình tượng mà bố mẹ có thể dành cho bé

Thủy Tiên: Một loài hoa đẹp

Ngọc Trâm: Cây trâm bằng ngọc, một cái tên gắn đầy nữ tính

Ðoan Trang: Cái tên thể hiện sự đẹp đẽ mà kín đáo, nhẹ nhàng, đầy nữ tính

Thục Trinh: Cái tên thể hiện sự trong trắng, hiền lành

Thanh Trúc: Cây trúc xanh, biểu tượng cho sự trong sáng, trẻ trung, đầy sức sống

Khánh Chi: Những điều may mắn.

Khánh Huyền: Điều may mắn và huyền diệu của bố mẹ.

Khánh My: Cô gái nhỏ mang lại điều may mắn.

Khánh Quỳnh: Đóa hoa mang lại niềm vui.

Khánh Vi: Đóa tường vi tốt lành.

Khúc Lan: Như một đóa hoa lan.

Kiều Anh: Cô gái đẹp, kiều diễm.

Kiều Hạnh: Cô gái đẹp và đức hạnh.

Kiều Mai: Đóa hoa mai kiều diễm.

Kiều Nguyệt: Vầng nguyệt kiêu sa.

Kiều Trinh: Điều tốt lành xinh đẹp của bố mẹ.

Kim Cương: Con là viên kim cương quý giá.

Con hãy là búp sen trắng toả hương thơm ngát

Bạch Liên: Hãy là búp sen trắng toả hương thơm ngát

Ngọc Liên: Đoá sen bằng ngọc kiêu sang

Mộc Miên: Loài hoa quý, thanh cao, như danh tiết của người con gái

Hà Mi: Con có hàng lông mày đẹp như dòng sông uốn lượn

Thương Nga: Người con gái như loài chim quý dịu dàng, nhân từ

Đại Ngọc: Viên ngọc lớn quý giá

Thu Nguyệt: Tỏa sáng như vầng trăng mùa thu

Share this:

Twitter

Facebook

57 Vị Phật, Bồ Tát Theo Truyền Thống Phật Giáo Tây Tạng

Mỗi một vị Phật, mỗi một vị Bồ Tát đều có hình tướng và hạnh nguyện riêng, nhưng các Ngài có chung một điều là đều có lòng thương chúng sinh vô cùng vô tận và làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.

Đạo sư Liên Hoa Sanh hay Ngài được biết là Guru Rinpoche. Ngài là hoá thân của Đức Phật A Di Đà và Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Ngài được coi là Đức Phật thứ hai sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bậc Thánh vĩ đại đã hàng phục mọi ma quỷ và tà đạo để thiết lập Mật thừa ở Tây Tạng và Ngài nổi tiếng là đấng Thủ Hộ nguyên thủy Bất biến Quang.

Ngài hứa rằng, cứ mỗi vị Phật ra đời sẽ có 1 tỷ tái sinh của Đức Liên Hoa Sanh để cứu độ chúng sinh khắp mọi nơi. Bất cứ ai có lòng sùng mộ đến Ngài và đọc bài kệ Bảy dòng, Ngài sẽ ngủ ở cửa nhà để bảo vệ và hướng dẫn họ tới giác ngộ.

Bài kệ Bảy dòng – Bảy Dòng Kim Cương Liên Hoa

Ngự trên một mặt trăng và mặt trời, Đức Quán Thế Âm là vị Bồ Tát quan trọng nhất trong các vị Bồ Tát.

Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát, lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.

Bồ Tát Quán Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện sự từ bi đến cùng tận trong đời vị lai nếu chúng sinh vẫn còn còn đau khổ. Vì chỉ có Từ Bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có Trí Tuệ mới diệt được u minh.

Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện độ sanh của Ngài.

Ở giữa trái tim mình, vị Bồ Tát vĩ đại này cầm một cách trìu mến viên ngọc Như ý, biểu hiện Trí tuệ siêu việt rằng sự tử tế sẽ mang lại sự tử tế và hãy hiểu rằng làm hại người khác nghĩa là làm hại chính mình.

Tất cả mọi thứ xảy ra trong đời con, dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều là kết quả của chính những điều con mong muốn. Vì vậy hãy mong muốn ích lợi cho mọi người.

Hãy đánh thức con người từ bi bên trong con. Hãy sống giống như là vị Bồ Tát của lòng từ bi và hãy chuyển hóa thế giới mà con đang sống thành thế giới đầy lòng từ bi.

3. Đức Phật Tài Bảo Jambala:

Đức Jambala hay Ngài còn được gọi là Dzambala. Ngài là vị Phật giúp tiêu trừ sự nghèo khó và tăng trưởng sự ổn định, giàu có.

“Ngài Jambala cầm một trái cây (hay ngọc như ý tỏa sáng) trong tay phải để thấy rằng nếu chúng ta theo sự tu tập của ngài, chúng ta có thể gặt hái kết quả từ những nỗ lực của bản thân để đạt tới thành tựu và giác ngộ.”

4. Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát:

“Đức Văn Thù Sư Lợi, nếu chúng ta đọc đủ theo âm Hán thì sẽ là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát. Ngài là đại diện cho Trí Tuệ vì Đại Trí nghĩa là Trí Tuệ thấu triệt chân lý một cách tường tận và tuyệt đối.”

Đức Văn Thù màu vàng nhảy múa tay phải cầm kiếm để tiêu diệt vô minh, tay trái cầm Kinh Bát Nhã biểu tượng cho trí tuệ cao nhất của nhà Phật.

Hai chân Ngài đang nhảy múa biểu tượng cho việc không thể tách rời giữa trí tuệ và phương tiện. Đức Văn Thù ban cho trí tuệ hiểu biết bản chất của thế giới lẫn trí tuệ hiểu biết mọi tính chất tương đối của các sự vật hiện tượng.

(Đọc: Ôm A ra pa tra na đê)

Bổn Tôn Đức Tara Trắng hay Ngài còn được biết đến là Bổn Tôn Bạch Độ Mẫu. Ngài là biểu tượng cho lòng từ bi chấp nhận. Màu trắng của Ngài tượng trưng cho sự tịnh hoá, bình an và trí tuệ. Ngài ban cho sự bảo vệ, sự tịnh hoá và hạnh phúc gia đình.

Ngài có thể giúp chúng sinh thành tựu tất cả những gì họ cần và cũng giúp họ ngăn ngừa các chướng ngại, đặc biệt là chướng ngại cho sự trường thọ của họ. Đó là lý do vì sao thực hành thần chú của Đức Tara Trắng rất phổ biến.

Thần chú của Đức Tara Trắng:

Om Tare Tuttare Ture Mama Ayuh Punya Jñana Pustim Kuru Svaha

(Đọc: Ốm Tha Rế Thu Tha Rế Thu Rê Ma Ma Ai Dà Pun Dà Nha Nà Put Tìm Khu Rù Sô Hà)

6. Đức Quán Thế Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay

Đức Quán Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, vị Phật với tình yêu thương không bờ bến, mở rộng cánh tay dịu dàng của Người ra mọi hướng, và dùng mọi phương tiện thiện xảo để đánh thức lòng từ bi chân thật trong trái tim mỗi chúng sinh.

Hãy nhận ra lòng từ bi vốn luôn sẵn có trong con và một cách tự nhiên sức mạnh của một nghìn cánh tay, một nghìn con mắt sẽ xuất hiện nơi con. Con sẽ không bao giờ đơn độc trong thế giới của lòng từ bi, vì có rất nhiều người khác cũng đang trên con đường này.

Hãy đánh thức những vị Bồ Tát nhiệt thành đang hiện diện bên trong con.

Hãy đọc tụng Om Mani Padme Hum, và quán tưởng mình chính là vị Phật của lòng từ bi.

Thần Chú của Ngài Quán Thế Âm – Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn:

( Đọc: Ôm ma ni pê mê hung hoặc Ôm ma ni pad mê hum)

Đức Kim Cương Thủ là vị Phật đại diện cho sức mạnh của tất cả chư Phật. Trong Đại Thừa, Ngài được gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát.

Trong Mật thừa, Ngài hiện thân phẫn nộ nhảy múa trong quầng lửa huy hoàng, tay phải cầm Chày kim cương phát ra sức mạnh sấm sét tiêu diệt mọi kẻ xấu hay điều xấu. Tay trái Ngài cầm sợi dây thòng lọng để trói bắt tất cả những kẻ thù của Pháp. Chân Ngài giẫm đạp lên những thân người đầu voi biểu tượng cho việc Ngài hàng phục được cả Chúa tể của Chư Thiên.

Trong quá khứ, chúa tể của chư thiên là Mahadeva ngàn tay có sức mạnh nghiêng trời lệch đất, nghĩ rằng mình mạnh nhất toàn bộ vũ trụ, tỏ ra kiêu ngạo coi thường Ngài. Hắn dẫn tất cả thiên binh đến thách thức sức mạnh của Đức Kim Cương Thủ.

Sau khi khuyên giải mà Mahadeva không nghe, Ngài đã dùng Chày kim cương tiêu diệt hắn chỉ trong một chớp mắt. Sau khi toàn bộ quân đoàn của Mahadeva đã hàng phục Đức Kim Cương Thủ, Ngài dùng thần lực cứu sống Mahadeva trở lại. Nhưng Mahadeva vẫn không hối cải, tiếp tục xông vào định đánh nhau với Ngài.

Đức Kim Cương Thủ một lần nữa trỏ ngón tay, cướp đi mạng sống của hắn. Mahadeva ngã lăn ra đất, không còn dấu hiệu của sự sống. Với lòng từ bi, Ngài cứu sống Mahadeva một lần nữa. Lần này Mahadeva quỳ xuống dưới chân Ngài, nhận được sự ban phước của Ngài và đạt giác ngộ ngay lập tức.

Hãy cầu nguyện đến Đức Kim Cương Thủ để vượt qua mọi chướng ngại và ma quỷ bên trong lẫn bên ngoài của bạn.

Ngài Tara Xanh hay còn được gọi là Đức Lục Độ Phật Mẫu.

Được sinh ra từ giọt nước mắt bi mẫn của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài Tara xanh tượng trưng cho lòng từ bi tích cực. Màu xanh của ngài biểu tượng cho thành tựu các hoạt động và phát triển các phẩm chất bên ngoài, bên trong và bí mật.

Ngài ban cho sự thành công trong các hoạt động và sự kết hợp giữa trí tuệ và hành động. Hãy cầu nguyện và trì tụng thần chú để nhận được sự ban phước từ Ngài Tara Xanh.

Thần chú của Ngài Tara Xanh:

Om tare tuttare ture soha

(Đọc: Ôm tà rê tút tà rê tu rê sô hà)

Đức Phật Di Lặc là vị Phật tương lai. Ngài sẽ thành Phật ở cõi người sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài là vị Phật của tình thương.

Trong vô số kiếp trước Ngài đã phát bồ đề tâm trước đức Đại Lực Như lai và rất nhiều vị Phật khác. Kể từ đó, Ngài đã dẫn vô số chúng sinh đến giác ngộ bằng giáo pháp của cả 3 thừa: nguyên thuỷ, đại thừa và mật thừa.

Khi thực hành như 1 vị Bồ tát, Ngài không chỉ thường xuyên thiền định về tình thương rộng lớn mà Ngài còn dạy nó cho nhiều người khác.

Ngài thường ngồi ở cổng của kinh thành và suy nghĩ sâu sắc về tình thương. Tâm yêu thương của Ngài mạnh tới mức những người đi gần Ngài, chạm vào chân của Ngài liền có được sự chứng ngộ về tình yêu thương vô điều kiện.

Đức Phật Dược Sư cầm trên tay phải một nhành Arura, mà từ đó mọi loại thuốc ở Tây Tạng được cấu thành. Tay trái Ngài cầm chiếc bát chứa ba loại nước cam lồ chữa bệnh và phục hồi sự sống, chống lão hóa và khai sáng tâm trí.

Mục đích của Ngài là chữa lành về tâm linh, còn thân thể chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian hữu hạn. Khi nhận ra thế giới này chỉ tồn tại trong ảo giác nhầm lẫn, con sẽ nhận ra tình trạng vật lý cũng là một sản phẩm của tâm con mà thôi.

Thân thể con chỉ là một phần của tâm. Hãy đánh thức người chữa lành linh thánh bên trong. Nhận ra ốm đau chỉ có thể làm thân thể này không khỏe, nhưng thân này không bao giờ thực sự là con.

Thần chú của Đức Phật Dược Sư

Tayata Om Bekandze Bekandze Maha Bekandze Radza Samudgate Soha

11. Đức Diệu Âm Thiên Nữ – Saraswati

Diệu Âm Thiên Nữ là vị nữ Phật của nghệ thuật Âm thanh, Biện tài và Trí tuệ. Ngài là phối ngẫu của Đức Văn Thù Bồ Tát.

Da Ngài trắng như tuyết, mặt đẹp như ngọc, tóc xanh mượt mà, mặc thiên y không một vết may.

Đang giảng kinh gì mà lỡ quên mất liền lập tức nhớ ra. Đang nói Thần chú gì mà không nhớ thì Thần chú vẫn lưu loát tuôn ra. Nếu như bạn thường xuyên cầu nguyện đến Ngài thì âm thanh lời nói của bạn sẽ trở nên đẹp đẽ, dễ nghe, khiến ai cũng muốn đi theo.

Ngài cũng là một vị nữ Phật của kỹ nghệ nên bất kỳ ai cần sự khéo léo trong công việc (vẽ tranh, sửa máy tính, chữa bệnh, chơi đàn, nấu nướng…) cũng nên cầu nguyện đến Ngài.

Om Sarasiddhi Hring Hring

(Đọc: Ôm sa rà si đi hi ring ring)

12. Đức Mahakala Như Ý – Cintamani Mahakala

Đức Mahakala trắng hay còn gọi là Đức Mahakala Như Ý – Cintamani Mahakala, tay Ngài cầm một viên ngọc ban cho con thành tựu mọi ước nguyện. Ngài hiện ra với một nụ cười đầy uy lực bảo vệ sự giàu có và thịnh vượng của những chúng sinh cần đến Ngài.

13. Đức Kurukulle – Tác Minh Phật Mẫu

Ngài Kurukulle – Tác Minh Phật Mẫu là một hóa thân của Đức Tara đỏ.

Ngài có thân hình màu đỏ rực, một mặt, 4 tay. Hai tay Ngài cầm cung tên do Hoa Ưu Bát La Hồng tạo thành: một tay cầm dây móc câu, một tay cầm trượng móc. Quanh mình Ngài quấn 50 chiếc đầu lâu trong tư thế nhảy múa, một chân giẫm đạp lên ma nữ ngoại đạo. Mặt Ngài biểu hiện nửa giận, nửa vui.

Những ai nương tựa vào Ngài sẽ tăng trưởng tâm vô úy, được Ngài hộ trì không còn e sợ luân hồi sinh tử. Ngài giúp bạt trừ chướng ngại, thu hút mọi ước nguyện đến với người mong cầu, đặc biệt là cải thiện mọi mối quan hệ xung quanh trở nên hòa nhã và yêu thương hơn.

Thần Chú của Đức Tác Minh Phật Mẫu:

(Đọc: Ôm Ku rum ku le ri sô hà)

Ngài Guru Dragpo hay còn gọi là Guru Bọ Cạp là một hóa thân của đức Liên Hoa Sanh.

Một lần, đức Liên Hoa Sanh đang giảng ở tu viện Samye thì Pehar – là một vị thần chiến tranh, hóa thành một tu sĩ trẻ và hỏi đức Liên Hoa Sanh: Ngài sợ gì nhất? Đức Liên Hoa Sanh trả lời bằng tiếng Tây Tạng Ngài sợ nhất là: “sdig pa” – nghĩa là những nghiệp xấu. Pehar nghe nhầm rằng đức Liên Hoa Sanh nói về con bọ cạp vì trong tiếng Tây Tạng thì bọ cạp cũng gọi là “sdig pa”.

Ngày hôm sau Pehar hóa thành bọ cạp khổng lồ đến định dọa nạt Đức Liên Hoa Sanh, Ngài liền hóa thành một bậc thầy phẫn nộ – Guru Dragpo, một tay cầm chày kim cương, tay kia bắt bọ cạp và dọa đập chết nó . Pehar bèn hàng phục trước Đức Liên Hoa Sanh và thề sẽ bảo vệ Phật Pháp.

15. Đức Phật Vô Lượng Thọ – Amitayus

Đức Vô Lượng Thọ là một hóa thân của Đức Phật A Di Đà.

Ngài có thân hình màu đỏ, đang ngồi trong tư thế thiền định, hai tay cầm chiếc bình chứa nước cam lồ bất tử. Ngài ban cho đời sống có tuổi thọ dài lâu, không đau buồn, bệnh tật và dẫn những người tin tưởng Ngài đến cõi Tây Phương Cực Lạc.

Những người theo Phật giáo Tây Tạng thường cầu nguyện đến Ngài khi mắc những căn bệnh hiểm nghèo như ung thư, HIV… bởi sự ban phước không thể nghĩ bàn của Ngài sẽ giúp họ vượt qua về mặt thể chất cũng như tinh thần.

Bài chú của Đức Phật Vô Lượng Thọ:

Ganesha là vị hộ Phật của Văn chương, Trí tuệ và đạp bằng mọi chướng ngại. Bụng bự của Ngài Ganesha biểu tượng cho sự thịnh vượng nhưng cũng biểu trưng cho sự rộng lượng và dung chứa vô tận.

Đầu voi to lớn, tượng trưng cho trí tuệ thông thái, tai to nghe nhiều hiểu rộng. Cái vòi tượng trưng cho những khả năng đặc biệt không ai có được.

Chiếc vòi có thể khai thông mọi bế tắc, quật ngã cây cối, giúp vượt qua rừng rậm, nhưng cũng lại rất tế nhị, thậm chí nhặt nổi một cây kim! Ngài giẫm lên một con chuột thể hiện cho tốc độ và sự khéo léo. Một ngà bị gãy của Ngài thể hiện cho sự khiêm nhường.

Hãy cầu nguyện đến đức Ganesha để phát triển tài năng văn chương, trí tuệ, sự khéo léo và sức mạnh vượt qua mọi chướng ngại.

Thần chú của Ngài Ganesha

Aum Shreem Hreem Kleem Klowm Gum Ganapathaye Vara Varadha Sarvajanmaye Vasamaanya Swaha (3 lần)

17. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:

Đội chiếc vương miện chế tác từ những viên ngọc của sự tỉnh thức hoàn toàn, Đức Phật – hay Phật tính ở trong trái tim của mọi chúng sinh và biểu hiện ra ngoài thành một vũ trụ sống động.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người khai sáng ra đạo Phật, Ngài được thờ ngay giữa chính điện, ngự trên đài sen với tư thế ngồi kiết già, hoặc ngồi kiết già với tay phải cầm hoa sen đưa lên.

Hãy để tâm con thoát ra khỏi cái bẫy của việc tin rằng có một cái tôi. Khi con nhận ra rằng Đức Phật chỉ đơn giản là bản tính tự nhiên của con thì hạt giống của sự bất tử sẽ tự chín muồi. Mục đích cuối cùng của Đức Phật là đánh thức tâm giác ngộ sẵn có trong mỗi chúng sinh.

Hãy quán chiếu về Đức Phật linh thánh bên trong, giải phóng con khỏi niềm tin rằng thế giới vật chất và tinh thần là có thật. Khi ấy không còn có gì hiện ra với con ngoài vị Phật tối thượng luôn ngự sẵn bấy lâu nay.

Nhạc niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật:

Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni:

18. Dakini Đầu Sư Tử Simha Mukha:

Dakini Đầu Sư tử Simha Mukha là một Dakini phẫn nộ và là hoá thân phẫn nộ của nữ Đạo sư Guhiajana, thầy của Đức Liên Hoa Sanh.

Ngài giúp hàng phục mọi ảnh hưởng tiêu cực và các cuộc tấn công của các lực lượng ma quỷ. Ngài cũng là hoá thân của Đức Vajravarahi (Kim Cương Heo Nái).

Dưới sự bảo vệ khéo léo và mạnh mẽ của Ngài, khi bạn bị tấn công, hãy cầu nguyện đến Ngài, mọi sự tấn công vào bạn sẽ bị phản ngược lại vào nguồn tấn công (gậy ông đập lưng ông), giúp bạn loại bỏ mọi chướng ngại để nhanh chóng đạt được giác ngộ.

19. Đức Mã Đầu Minh Vương – Hayagriva:

Đức Mã Đầu Minh Vương – Hayagriva là hóa thân phẫn nộ của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài có 3 đầu, 6 tay, 4 chân và trên đỉnh đầu Ngài là một chiếc đầu ngựa đang hí vang.

Tất cả mọi thế lực tiêu cực chỉ cần nghe tiếng hí oai hùng của Ngài sẽ run rẩy và hàng phục. Nếu cầu nguyện đến Ngài và được Ngài ban phước, bạn sẽ điều phục được người ác, dứt trừ mọi bệnh tật, đánh lui được đối thủ và tranh luận được thắng lợi.

20. Đức Kim Cương Tát Tỏa – Vajrasattava:

Đức Kim Cương Tát Đỏa là một vị Phật có lời nguyện sẽ tịnh hóa tất cả tội lỗi của chúng sinh.

Khi còn là một vị Bồ Tát, Ngài nguyện rằng: bất kỳ ai đọc câu Thần chú Trăm âm của Ngài thì Ngài sẽ nhận lãnh nghiệp xấu của người đó và chuyển nghiệp tốt của Ngài cho họ. Bất kỳ ai đọc Thần chú của Ngài mà không tiêu trừ bớt nghiệp xấu thì Ngài nguyện không thành Phật.

Các hành giả Mật thừa nên nương tựa vào sức mạnh tịnh hóa từ Thần chú Trăm âm của Đức Kim Cương Tát Đỏa để nhanh chóng vượt qua mọi lỗi lầm bên ngoài lẫn bên trong và đạt tới giác ngộ.

Thần chú của Đức Kim Cương Tát Đỏa:

Om benzar sato sa ma ya ma nu pa la ya

Benzar sato te no pa

Tishtha dri dho me bha wa

Su to ka yo me bha wa

Su po ka yo me bha wa

Anu rakto me bha wa

Sarva siddhi me pra yatsa

Sarva karma su tsa me

Tsittam shre yam ku ru hung

Ha ha ha ha ho bha ga wan Sarva ta tha ga ta benzra ma me muntsa benzri bha

Ma ha sa ma ya sato

Hiểu biết sai lầm khi tịnh hóa thông qua đọc thần chú Kim Cang Tát Đỏa

Đức Phật Bất Động A Súc Bệ là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Kim Cương Bộ ở phương Đông.

Ngài là biểu tượng của Đại Viên Cảnh Trí – Trí tuệ phản chiếu tất cả mọi sự vật hiện tượng và biết rõ đâu là thật, đâu là giả. Thân Ngài có màu xanh dương thẫm, tay kết ấn thiền định và ôm lấy phối ngẫu màu trắng biểu tượng cho sự kết hợp không thể chia tách của Phương tiện và Trí tuệ.

22. Đức Kim Cương Heo Nái – Vajravarahi:

Đức Kim Cương Heo Nái – VajraVarahi

Ngài là hoá thân phẫn nộ của Đức Kim Cương Du Già Thánh Nữ, chúa tể của mọi nữ hành giả Mật thừa. Trên đầu của Ngài là một chiếc đầu lợn biểu tượng cho việc Ngài chặt đầu của vô minh làm trang sức.

Trong thời của Đức Phật, có một con quỷ tên là Matrankagu gieo rắc sự kinh hoàng và khủng khiếp khắp 8 thế giới. Ngay cả những chúa quỷ hùng mạnh nhất cũng bị nó hàng phục và nó đe dọa sẽ phá huỷ toàn bộ cõi trời, lật đổ núi Tu Di nơi 33 cõi trời tọa lạc.

Chư thiên sợ hãi cầu cứu Đức Phật và Đức Phật quyết định để Đức Quán Thế Âm và Đức Kim Cương Du già Thánh Nữ đi hàng phục con quỷ.

Hai Ngài bay đến vương quốc của quỷ Matrankagu, Đức Quán Thế Âm liền hoá thành Mã Đầu Minh Vương 3 đầu 6 tay, có cánh sau lưng, còn Đức Kim Cương Du Già Thánh Nữ liền hoá thành Kim Cương Heo Nái ôm lấy Đức Mã Đầu Minh Vương trong vũ điệu hoan lạc.

Đức Mã Đầu Minh Vương hí lên 3 tiếng hào hùng, đưa sợ hãi vào trong tim của Chúa quỷ Matrankagu, còn Đức Kim Cương Heo Nái gầm lên 5 tiếng khiến vợ của Chúa quỷ run rẩy trong hoảng loạn.

Cả Chúa quỷ lẫn vợ đều đến hàng phục dưới chân hai Ngài nhưng hai Ngài không giết chúng mà quy y và giảng pháp cho chúa quỷ. Sau khi tu hành giác ngộ, chúa quỷ Matrankagu trở thành vị Hộ pháp tối thắng của nhà Phật thường được gọi là Mahakala đen.

23. Đức Đại Hắc Kim Cương Sáu Tay – Mahakala Sáu Tay:

Huy hoàng đồng thời cũng đáng sợ! Đức Đại Hắc Kim Cương, vị Hộ Pháp bảo vệ sự phát triển tâm linh, đứng ngay giữa một vầng lửa cháy dữ dội, không có một kẻ thù nào của tâm Giác ngộ, không có một sự điên loạn hoặc tiêu cực nào có thể chịu đựng được lâu dài sự hiện diện của vị Hộ Pháp phẫn nộ này. Sáu tay của Ngài biểu tượng cho sáu ba la mật, mỗi tay trong sáu tay của Ngài là biểu tượng cho việc tăng trưởng sự hào phóng, đạo đức, nhẫn nhục, kiên định, thiền định và trí tuệ. Chiếc dao kim cương sắc bén được cầm vững chắc trên một tay cắt xuyên qua và vượt qua mọi khuôn mẫu tiêu cực của tham – sân – si.

Nếu con cầu nguyện đến sự bảo vệ của Ngài thì Đức Đại hắc kim cương, Người hoàn toàn không có một chút ngăn ngại nào, luôn dõi theo để đảm bảo rằng con đang ở trên con đường linh thánh.

Đức Mahakala Sáu tay sẽ luôn bảo vệ và chăm sóc cho con.

Thần chú của Ngài Đại Hắc Kim Cương Mahakala:

Om Shri Mahakala Hum Phat

(Đọc: Ôm si ma ha ka la hum mê)

24. Đức Hô Kim Cương – Hevajra:

Đức Hô Kim Cương hay còn gọi là Đức Kim Cương Hỷ Lạc, Ngài có thân thể màu xanh da trời, 8 mặt, 16 tay và 4 chân. Mỗi mặt Ngài có 3 mắt và 4 chiếc răng nanh. Mỗi cánh tay cầm một chiếc sọ máu đang trong tư thế nhảy múa dữ tợn và hoan lạc.

25. Đức Liên Hoa Thủ Bồ Tát – Padmapani:

Ngài là biểu trưng của tình thương, sự thanh khiết và khả năng sáng tạo của trí tuệ.

26. Đức Trừ Chướng Cái Bồ Tát:

27. Đức Phật Kim Cương Trì – Vajradhara:

28. Đức Bất Động Minh Vương:

Là một trong năm Đại Minh Vương của Mật giáo – Bất Động Minh Vương là hoá thân phẫn nộ của Đức Đại Nhật Như Lai để hàng phục những chúng sinh quá cứng đầu và hộ trì Tam Bảo trong những đời vị lai. Sức mạnh và uy lực của Ngài là không thể nghĩ bàn.

Tay phải Ngài cầm thanh kiếm sắc bén chém đứt tham – sân – si là ba thứ độc hại đối với trí huệ. Tay trái nắm sợi dây có thể trói buộc tất cả những kẻ ỷ mạnh làm càn. Ngọn lửa lớn cháy mãnh liệt sau lưng Ngài có thể thiêu đốt hết thảy mọi phiền não.

Do đó, tất cả các hình tướng phẫn nộ nhìn có vẻ đáng sợ nhưng đều biểu hiện cho lòng đại bi của Ngài.

Thần chú của Ngài Bất Động Minh Vương:

Namo Samanto Vajra Nai Ham

(Đọc: Nam mô sam an tô gua ra nai ham)

Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Liên Hoa Bộ ở phương Tây.

Ngài là biểu tượng của Diệu Quan Sát Trí – Trí tuệ thấy rõ mọi tính chất khác biệt của các sự vật hiện tượng. Thân Ngài màu đỏ, hai tay kết ấn thiền định. Ngài biểu trưng cho lòng từ bi vô lượng.

Ngài cũng là biểu tượng của sự tịnh hoá tính tham lam, chuyển hoá thành Diệu Quan Sát Trí.

Thần chú của Đức Phật A Di Đà:

(Đọc: Ôm ma ni đê wa ri)

Thần chú Đức Địa Tạng Bồ Tát:

Om Ha Ha Ha Win Sam Mo Ti So Ha

( Đọc: Ôm ha ha ha quin sam mô ti sô hà)

Quán Tưởng Thân Tướng Đức Đại Thế Chí Bồ Tát:

34. Đức Hư Không Tạng Bồ Tát:

Đức Hư Không Tạng Bồ Tát là một trong bát Đại Bồ tát của Phật giáo.

Ngài là biểu tượng cho trí tuệ, công đức và tài phú. Bởi vì Ngài có kho tàng mênh mông như hư không vô biên, có thể thỏa mãn hết thảy nhu cầu, khiến cho chúng sinh đạt được lợi ích vô cùng, chính vì thế Ngài có tên như vậy.

Ngài đội mũ Ngũ Phật, tay phải cầm kiếm lửa, tay trái cầm một cành hoa sen, trên đài hoa là viên ngọc như ý. Ngọc và kiếm biểu tượng cho công đức và trí tuệ.

Thần chú của Đức Hư Không Tạng Bồ Tát:

Om Vajra Ratna Om Trah Svaha

Ý nghĩa Chú của Đức Hư Không Tạng Bồ tát

35. Đức Thắng Lạc Luân Kim Cương – Chakrasamvara:

Bánh xe đại dục lạc là một biểu tượng của tâm giác ngộ – khi ham muốn và giận dữ được chuyển hóa thành lòng từ bi đại lạc.

Ở trung tâm, Đức Phật Phối Ngẫu thiêng liêng hoá hiện thành tinh thần, thân thể và tâm con, và ở bên ngoài chính là thế giới vật chất này! Nam và nữ, lòng từ bi và trí tuệ, phương tiện thiện xảo và tính không, hợp nhất và tạo nên sức sáng tạo mãnh liệt vượt khỏi mọi hy vọng, ham muốn, so sánh và sợ hãi. Không có sự tách rời giữa con và những thứ khác.

Hãy chuyển hóa những phản ứng dè dặt của con thành sự hòa nhập triệt để vào cuộc sống. Hãy nhìn vào bên trong, con chính là không gian của đại lạc biểu hiện qua sự hài hoà của vũ trụ này!

Đức Phổ Hiền Bồ tát – Phổ là biến khắp, Hiền là tốt đẹp. Phổ Hiền là vị Bồ tát Đẳng giác có năng lực hiện thân khắp mười phương Pháp giới, tùy mong cầu của chúng sinh mà hiện thân hóa độ.

10 Hạnh Nguyện của Đức Phổ Hiền Bồ Tát:

37. Đức Kim Cương Phổ Ba – Vajra Kilaya:

Đức Kim Cương Phổ Ba (Vajra Kilaya) thân màu lam đen có ba đầu sáu tay.

Đầu đội mũ năm đầu lâu; trên cổ đeo ba chuỗi đầu người với rắn trang sức; khoác áo da voi và da người; mặc quần da cọp. Sau lưng có hai cánh sắc bén như cây kiếm.

38. Đức Liên Hoa Thủ Bồ Tát – Padmapani:

39. Đức Kim Cương Thời Luân:

Đức Kim Cương Thời Luân là đại biểu cho tất cả chư Phật, Bồ Tát ở mười phương cùng với tổng thể của Phật Giáo Hiển Mật, là chân lý hiển hiện sự tuyệt diệu rất hoàn mỹ.

40. Đức Khổng Tước Minh Vương:

Đức Khổng Tước Minh Vương là một trong những hoá thân của Đức Phật A Di Đà.

Ngài có thân màu trắng, mặc áo lụa trắng mỏng, đầu đội mão báu, cổ đeo dây ngọc, hoa tai, cánh tay đeo vòng xuyến, các thứ trang nghiêm, cưỡi trên Khổng Tước Vương màu vàng ròng, ngồi kiết già trên hoa sen trắng, trụ tướng Từ bi có bốn cánh tay:

– Bên phải: tay thứ nhất cầm hoa sen tượng trưng cho kính ái, tay thứ hai cầm Câu Duyên Quả tượng trưng cho điều phục.

Còn đuôi công lại hay phủi trừ vô lượng tai ách, tăng phước, đạt được các điều tốt lành và thành tựu mọi ước nguyện của chúng sinh.

41. Chaturmukha Mahakala – Đức Mahakala Bốn mặt:

Tay phải Ngài cầm một thanh kiếm của Đức Văn Thù, tay trái Ngài cầm một chiếc đinh ba trên đó có sọ người biểu tượng cho việc chiến thắng sinh tử. Ngài có thể ban cho trường thọ, giàu có, quyền lực và đặc biệt là trí tuệ Giác ngộ.

42. Đức Phổ Hiền Như Lai Phối Ngẫu:

Hình ảnh Đức Phổ Hiền Như Lai Phối Ngẫu biểu hiện sự hòa nhập tuyệt đối của các cặp đối lập: tính không và hình tướng, tâm và vật chất, nam và nữ.

Hãy quán chiếu về sự hợp nhất linh thánh của vị Phật nam và vị Phật nữ hóa hiện thành thế giới vật chất này, và bản chất của những gì hiện hữu – sẽ được hiển lộ.

Hãy chữa lành khỏi những ảo tưởng của sự chia tách và phân biệt – hãy quán chiếu về hình ảnh của sự kết nối linh thánh này và biết rằng con chưa bao giờ cô độc.

43. Cam Lồ Quân Trà Lợi Minh Vương – Amrita Kundali

Là một trong năm vị Đại Minh Vương của Mật Giáo – hóa thân phẫn nộ của Đức Phật Bảo Sanh, Cam Lồ Quân Trà Lợi dịch âm từ tiếng Phạn – Amrita Kundali, nghĩa là cái bình, chứa đầy nước Cam Lồ tẩy rửa phiền não vô minh của chúng sinh.

Ngài thị hiện tướng phẫn nộ, hình mạo lại tựa thân Dạ Xoa, nên cũng gọi là Quân Trà Lợi Dạ Xoa Minh Vương.

44. Đức Quan Âm Trắng Ôm Phối Ngẫu:

Bao quanh bởi những đoá sen đang nở rộ, mỗi bông hoa đều tượng trưng cho sự thanh tịnh tự nhiên của tâm, những phẩm tính của Đức Quan Âm Trắng thực chất không thể tách rời với phẩm tính của chính con.

Tình yêu thương vô điều kiện của Ngài là biểu hiện của lòng từ bi chân thật, điều sẽ tự nhiên xuất hiện khi ta nhận ra con và vạn vật vốn là một, giống như các bộ phận trên cùng một cơ thể.

Thông điệp của Ngài là: Hãy tự giải phóng khỏi những suy nghĩ chỉ phục vụ cho riêng mình, hãy dũng cảm, vị tha và sáng suốt hành động vì lợi lạc của tất cả chúng sinh, đây là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho một đời sống lâu dài và hạnh phúc.

45. Phật Đảnh Tôn Thắng Phật Mẫu:

Phật Đảnh Tôn Thắng Phật Mẫu là vị Phật của sự trường thọ.

Tay Ngài nâng Đức Phật A Di Đà làm Thượng Sư, biểu thị hoài ái, tay cầm mũi tên, đại biểu sự khơi dậy lòng từ bi của chúng sinh. Ấn Thí Vô Úy đại diện cho việc dẫn chúng sanh ra khỏi tất cả sự sợ hãi, ấn Thí Nguyện biểu thị sự đáp ứng đầy đủ tất cả tâm nguyện của chúng sanh, tay cầm cây cung biểu thị cho sự chiến thắng tam giới.

Trên bàn tay kiết ấn Định nâng bình cam lồ giúp chúng sinh vô bệnh tật, sống lâu. Chày kim cang đôi hình chữ thập biểu thị hàng ma, trừ tai chướng để sự nghiệp thành tựu, dây trói đại biểu cho việc hàng phục tất cả chúng sinh khó điều phục.

46. Hàng Tam Thế Minh Vương:

Hàng Tam Thế Minh Vương là biểu tượng cho sự hàng phục ba độc tham – sân – si và hàng phục ba cõi: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới.

Thân Ngài màu xanh, có ba mặt, tám cánh tay hoặc bốn mặt tám cánh tay. Ngồi trên hoa sen, lửa rừng rực. Hai tay thứ nhất kết Hàng Tam Thế Ấn.

Bên trái: tay thứ hai cầm cây cung, tay thứ ba cầm sợi dây, tay thứ tư cầm cây Tam Xoa Kích. Bên phải: tay thứ hai cầm mũi tên, tay thứ ba cầm cây kiếm, tay thứ tư cầm cái chuông Ngũ Cổ.

Phàm các quyến thuộc của các ma quỷ có ý quấy rối người tu hành, khi nghe được Chân Ngôn của Hàng Tam Thế Minh Vương thì chẳng những không có cách gây chướng, thậm chí còn trở thành tôi tớ theo hầu người tu hành.

47. Đức Phật Bất Không Thành Tựu:

Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Nghiệp Bộ ở phương Bắc. Ngài là biểu tượng của Thành Sở Tác Trí – Trí tuệ thành tựu mọi loại mục tiêu.

Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Bảo Sanh Bộ ở phương Nam. Ngài là biểu tượng của Bình Đẳng Tánh trí – Trí tuệ thấy rõ sự bình đẳng của tất cả các Pháp.

Thân Ngài sắc vàng, tay phải trong ấn thí nguyện, tay trái trong ấn thiền định. Ngài biểu trưng cho công hạnh bố thí siêu việt, độ sinh, tăng ích, và ban cho tất cả những gì quý giá nhất.

Ngài cũng là biểu tượng của sự tịnh hoá tính kiêu ngạo, chuyển hoá thành Bình Đẳng Tánh Trí.

49. Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương:

Là một trong năm vị Đại Minh Vương của Mật Giáo. Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương là hóa thân Phẫn nộ của Đức Như Lai Bất Không Thành Tựu.

Ngài có ba mặt sáu cánh tay. Mặt chính giương mở năm con mắt, hai mặt bên trái bên phải đều có ba mắt, đầu có Mã Vương Kế (tóc trên đầu dựng đứng bên phải như ngựa chạy giận hét).

Nâng cao chân trái, duỗi chân phải đứng trên hai đài sen, hàng phục tất cả Dạ Xoa, cho nên hiện ra hình tướng dũng mãnh quả cảm. Đặc biệt là tay cầm cái chuông biểu thị cho việc dùng tiếng chuông trấn kích chúng sinh, tượng trưng cho Trí Bát Nhã cảnh ngộ quần mê, hàng phục yêu ma.

Vị Minh Vương này có thể ăn thịt hết tất cả chúng sinh xấu ác, tiêu tai trừ nạn, tiêu phục tà trược.

50. Đức Phật Tì Lô Giá Na – Đại Nhật Như Lai:

Là một trong Ngũ Trí Phật và là vị Phật đứng đầu của Phật Bộ ở trung tâm.

51. Đức Bí Mật Tập Hội Kim Cương:

Đức Bí Mật Tập Hội Kim Cương là hoá thân phẫn nộ của Đức Phật A Súc Bệ của Kim Cương Bộ. Trong quá trình sinh ra và trưởng thành, con đã liên tục cô lập mình thành một cái tôi riêng biệt và tạo ra sự tách rời ngày một cứng đặc hơn với “phần còn lại của vũ trụ”.

Tuy thế bên trong con luôn khao khát được hoà nhập trở lại với sự toàn thể này. Đức Bí Mật Tập Hội Kim Cương ban cho sự hướng dẫn để con có thể hoà nhập hoàn toàn vào sự thật bằng con đường hoan lạc.

Sự hoà nhập này bao gồm toàn bộ hiện thực của con, thế giới vật chất, tinh thần và thế giới tâm linh.

Với chỉ một búi tóc, một bầu ngực và một mắt tượng trưng cho chỉ có duy nhất một Sự Thật Tuyệt Đối “Đại Toàn Thiện”.

Ngài là hiện thân của trí tuệ nguyên thủy. Ngài là vị nữ hộ pháp đặc biệt chuyên bảo vệ giáo lý Đại Toàn Thiện.

53. Đức Kim Cương Khủng Bố – Yamataka:

Hay còn gọi là Đức Kim Cương Khủng Bố, là hóa thân phẫn nộ của Đức Văn Thù. Giống như quái vật hung tợn được hồi sinh, vị Phật trong hình tướng phẫn nộ này hướng cơn giận dữ siêu việt của Ngài chống lại các lực lượng của cái chết và sự hủy diệt.

54. Đức Kim Sí Điểu – Garuda:

Đức Kim Sí Điểu – Garuda mình người, có đầu và cánh của chim đại bàng là biểu tượng cho sức mạnh dữ dội, tốc độ, sự dũng cảm và tinh thần thượng võ.

Ngài là một chiến binh hùng mạnh xông tới một cách nhanh chóng và dũng mãnh trước kẻ thù là những con rắn tượng trưng cho vô minh và hiểm độc.

Một lần vỗ cánh của Ngài bay được 336 vạn dặm. Cơn gió tạo ra từ cánh Ngài có thể tạo thành cuồng phong che phủ bầu trời.

Trong nhà Phật, Ngài là một vị Hộ Pháp toàn năng. Người nương tựa đến Ngài có thể tránh khỏi tai nạn và bệnh tật, hàng phục được oan gia, làm tan rã quân địch và gặp được người thân ở phương xa.

Pháp môn của Ngài thường được tu tập cùng với Pháp môn của Đức Kim Cương Thủ và Đức Mã Đầu Minh Vương.

55. Đức Kim Cương Dạ Ma Vương – Yama:

Đức Kim Cương Dạ Ma Vương là vị Hộ pháp trí tuệ của Tối thượng Du già Mật tông.

Thân thể Ngài màu xanh đậm, đầu trâu giận dữ với cái miệng há to. Ngài có ba mắt, hai sừng nhọn hoắt và tóc dựng đứng.

Tay phải Ngài dang ra cầm một chiếc gậy đầu lâu, tay trái hướng lên trên vung dây thòng lọng. Đầu đội vương miện năm đầu lâu khô.

Người quấn tràng hoa năm mươi đầu lâu đẫm máu. Mắt tròn mở to nhìn phối ngẫu đang nhảy múa cùng Ngài. Cả hai Ngài đều đứng trên lưng một con trâu xanh, đang giẫm đạp lên một thân thể đàn ông trần truồng, bao quanh hai Ngài là lửa da cam cháy dữ dội biểu tượng cho ngọn lửa của Sự Tỉnh Thức Nguyên Thuỷ.

56. Đức Bạch Tán Cái Phật Mẫu – Sitatapatra:

Sinh ra từ đỉnh đầu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tay Ngài cầm chiếc lọng báu màu trắng, che chở cho tất cả chúng sinh trong cả tam thiên đại thiên thế giới.

57. Đức Như Ý Luân Quan Âm – Cintamani Cakra:

Được biết đến như là: “Người lắng nghe được tiếng khóc của thế giới”, Đức Như Ý Luân Quan Âm luôn đến với con để giúp đỡ con khi con cầu nguyện. Người sẽ giải trừ phiền não, đau khổ trong con và giúp con đạt ước nguyện.

Thân Người màu trắng giống như mặt trăng mùa thu và sáng tỏ như một viên ngọc không tỳ vết. Ngài tỏa ra ánh sáng vô lượng của sự thanh khiết.Ngài là sự thật hoàn hảo, tròn đầy và không thể tách rời với những gì đang hiện hữu. Ở trong mỗi các con đều có một vị Phật từ bi, là Đức Như Ý Luân Quan Âm.

Hãy sống giống như Đức Như Ý Luân Quan Âm – Đức Phật của lòng từ bi tích cực, và hãy tưới mát thế giới này bằng tình thương trong sáng.

(Nguồn: Fanpage Quan Âm Bồ Tát)

Trong Phật Giáo Bắc Tông,Tu Sĩ Và Phật Tử Được Đặt Tên Theo Những Nguyên Tắc Nào?

Trong Phật giáo Bắc tông, tu sĩ được đặt tên theo dòng phái. Tu sĩ sau khi vào chùa tu, được thầy đặt cho tên, gọi là pháp tự. Tên được đặt dựa vào cá tính của người ấy, có được sau khi đã thọ giới Sa Di giới (10 giới), gọi là Giới danh.

Khi đi cầu pháp ở một vị thầy giỏi về giáo lý, sẽ được đặt tên gọi là pháp hiệu. Thầy phú pháp đặt tên này để ấn chứng một sự thụ đắc nào đó của người theo học. Có dòng phái thường ra hai bài kệ song song, một dùng đặt pháp danh, một dùng đặt pháp hiệu. Tên đặt theo bài kệ gọi là tên Húy (pháp danh), dùng ghi vào bài vị sau khi người tu sĩ qua đời. Từng chữ trong bài kệ tiêu biểu cho một thế hệ truyền thừa. Như bài kệ của dòng Đạo Bổn Nguyên, có câu đầu là “Đạo Bổn Nguyên thành Phật tổ tiên…”. Chữ Đạo thuộc đời thứ 31 do Đạo Mẫn khai sáng bài kệ. Như vậy, chữ Bổn thuộc đời thứ 32, và chữ Nguyên thuộc đời thứ 33, như Nguyên Thiều, người có công đầu mang Phật giáo vào Đàng Trong…

Đạo hiệu là tên vua phong. Thụy hiệu là tên đặt sau khi người tu sĩ đã mất. Trong Phật giáo, khái niệm là tín đồ không thật sự rõ ràng. Thời Đức Phật còn tại thế, những người chưa xuất gia, cảm mến đường hướng và giáo thuyết của Đức Phất, hỗ trợ cho tăng đoàn phẩm vật, hoặc nghe họ nói pháp… đều được xem là thí chủ. Sau khi đức Phật viên tịch, những người xuất gia có số đệ tử đông đúc, theo từng hệ phái riêng. Từ nay, khái niệm tín đồ đã tương đối được rõ ràng hơn, còn gọi là Phật tử.

Một tín đồ Phật giáo phải là một người đã tiến hành lễ thọ “tam quy, ngũ giới”. Thọ tam quy là quy y Tam Bảo, tức trở về (quy) dựa vào (y) Tam Bảo (Phật, pháp, tăng). Thọ ngũ giới là phát nguyện giữ gìn năm giới không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Thọ tam quy ngũ giới, người đó đã được xem là một Phật tử, tu hành tại gia, được đặt cho tên đạo, gọi là pháp danh.

Thông thường, pháp danh được đặt theo chữ đầu của bài kệ thuộc dòng phái mà bổn sư truyền giới đã theo. Bổn sư thuộc đời nào thì đệ tử sẽ dưới đó một đời. Nếu bổn sư thuộc thế hệ truyền thừa của dòng Lâm Tế, phái Liễu Quán, đời thứ 38 thì đệ tử phải thuộc đời thứ 39. Đấy là cách đặt tên pháp danh áp dụng cho những người đã xuất gia.

Còn đối với Phật tử tại gia, sau ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vào năm 1964, có Hiến chương của giáo hội, cách đặt tên của Phật tử thông thường có chữ đầu là Minh đi kèm với tên, dành cho nam giới và chữ đầu là Diệu, đi kèm với tên, dành cho nữ giới… như nam Phật tử Minh Thọ, nữ Phật tử Diệu Nghĩa…

Đứng đầu các tên là họ Thích, vì được quan niệm theo đạo Phật, tất cả đều là con của Phật, có họ của đức Thích Ca. Tuy nhiên tên gọi có cả họ thường chỉ được dùng cho hàng tăng sĩ đã xuất gia.

Người nam có họ Thích rồi kèm theo pháp danh, người nữ có họ Thích nữ kèm theo pháp danh. Như Hòa thượng Thích Thiện Chiếu, ni sư Thích nữ Như Thanh…

Hệ Thống Các Vị Phật, Bồ Tát Và Thần, Quỷ Trong Phật Giáo

Đức Phật Cồ Đàm (Siddhattha Gotama) hay Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) là cái tên đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt và chúng ta được nghe kể rất nhiều về cuộc đời của ông qua các truyền thuyết Phật giáo được lưu lại trong văn bản kinh sách, thế nhưng, nếu tiếp cận cuộc đời của ông dưới góc nhìn lịch sử thì sẽ thấy quá nhiều điểm mờ. Cũng giống như Jesus Christ, Thích Ca Mâu Ni không để lại nhiều vết tích khảo cổ (dù có nhiều thánh tích và kinh văn ghi ghép). Năm sinh và năm mất của Thích Ca Mâu Ni không được xác định chính xác, chỉ được ước đoán vào khoảng thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 5 Trước công nguyên, cùng thời đại với một nhà truyền giáo khác là Mahavira, người sáng lập Jain giáo (1). Có một sự tương đồng trong cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni và Mahavira, đó là hai ông đều là các hoàng tử rời bỏ cung vàng điện ngọc để tu luyện và đắc đạo rồi rao giảng triết thuyết của mình để cứu rỗi dân chúng.

Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh – quyển thứ 2 trong số 5 quyển Nikāya) có nhắc đến chi tiết Thích Ca Mâu Ni đàm luận với một vị tu sĩ của Mahavira là Nigantha Dighatapassi và thu phục cư sĩ Jain giáo Upali tham giao giáo đoàn của Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, ta có thể thấy, ở thời điểm Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, có một sự cạnh tranh giữa Phật giáo và Jain giáo, và cả hai giáo phái này đều đi ngược lại các truyền thống của Bà La Môn giáo đang thống trị ở Ấn Độ với các lề luật khắc nghiệt và sự phân biệt đối xử giữa các đẳng cấp. Không chỉ Phật giáo và Jain giáo, nhiều giáo phái và trường phái tư tưởng cũng nở rộ trong thời gian này như Pūraṇa Kassapa, Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambalī, Pakudha Kaccāyana, and Sañjaya Belaṭṭhaputta, những vị được nhắc tới trong “Samaññaphala Sutta”(có nghĩa là “Qủa trái của đời sống chiêm niệm”, trích từ quyển 1 của Nikāya) (2). Các nhà nghiên cứu dự đoán thời đại của Đức Phật trùng với cuộc chinh phạt Thung lũng Indus của đế chế Achaemenid dưới thời đại trị vì của vua Darius I (3).

Không có nhiều văn bản lịch sử ghi chép về Đức Phật trong vòng một đến hai thế kỷ sau thời đại của ông. Chỉ đến thời vua Ashokha vào giữa thế kỷ 3 TCN, Đức Phật mới được đề cập đến trong các đạo luật của vị vua này, và trên Trụ đá Rummindei khi Ashokha tưởng niệm cuộc hành hương của mình tới Lumbini, nơi được cho là ghi dấu sự kiện Đức Phật ra đời (7). Bản thảo Phật giáo lâu đời nhất được lưu lại tới nay là các văn bản Phật giáo Gandhāran, được tìm thấy ở miền đông Afghanistan và bảo quản tại Thư viện Anh quốc, được viết bằng ngôn ngữ Gāndhārī trên vỏ cây bạch dương, có niên đại từ thế kỷ I TCN đến thế kỷ 3 SCN. (8)

“Then like Indra himself, and having tamed his senses,-desiring to return home he mounted his roble steed; and having made him turn back as he looked for his friends, from that moment he sought no more the desired forest.” (9)

“Thế rồi, giống như chính Indra, sau khi đã thuần hóa được các giác quan của mình, – với mong muốn quay trở về nhà người đã cưỡi lên con ngựa cao quý của mình; sau khi quay lại để tìm kiếm bạn bè, từ khoảnh khắc đó người không còn tìm kiếm khu rừng mơ ước nữa.”

Các cuốn kinh khác thuộc dòng đại thừa như Mahāvastu (kể về Lokottaravāda, chi phái Phật giáo đầu tiên theo quan điểm của đại thừa và thừa nhận sự siêu việt của Đức Phật), Lalitavistara Sūtra (tên tiếng Việt: Kinh Phổ Diệu, kể về sự đản sinh của Đức Phật) đều đề cập đến cuộc đời của Đức Phật và có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 3 SCN. Những chi tiết trong hai bộ kinh này khá tương đồng với Nidānakathā trong hệ kinh tiểu thừa bằng tiếng Pali, có niên đại khoảng thế kỷ 5 SCN. Qua các cuốn kinh này, ta được biết rằng cuộc đời Đức Phật được chia làm 3 giai đoạn:

Khi Đức Phật là một vị bồ tát dưới sự trị vì của Phật Dīpankara ( Nhiên Đăng) và những câu chuyện tiền kiếp.

Khi Đức Phật đầu thai làm thái tử rồi bỏ đi tu, thiền định và chứng ngộ

Những cuộc đàm luận cùng với giáo đoàn

Nếu lược bỏ tất cả các huyền thoại mang nhiều màu sắc kỳ ảo, ta có thể biết những điều sau về Đức Phật dù không quá chắc chắn: Có một quý tộc của bộ tộc Shakya sống ở vùng núi Hymalaya, giáp ranh giữa Ấn Độ và Nepal hiện nay, đã từ bỏ ngôi vua để tu hành. Ông có thể đã trải qua nhiều pháp môn đang hiện hành ở Ấn Độ lúc bấy giờ, nhưng rồi ông đã chọn con đường thiền định và chiêm niệm trong tĩnh lặng dưới gốc cây bồ đề. Bằng con đường thiền định và chiêm niệm, ông đã có những nhận định về bản chất của thực tại và sự sống. Ông bắt đầu đi rao giảng những gì mình chiêm nghiệm và thu hút không ít các tín đồ. Cùng thời đại với ông cũng có nhiều nhà tư tưởng khác cùng rao giảng các triết thuyết khác nhau. Tư tưởng của ông được các đệ tử nhiều đời lan truyền nhưng họ cũng không quên bổ sung các chi tiết để phù hợp với trình độ, quan điểm, thân phận và nhiệm vụ họ phải gánh vác (chúng ta sẽ đi sâu vào điểm này ở phần I-2). Dù ông có những quyền năng huyền diệu như trong các cuốn kinh Phật đã thuật lại hay không thì tư tưởng của ông được phản chiếu qua ghi chép của nhiều thế hệ đệ tử cũng đã thay đổi thế giới, hướng con người vượt qua sự vô minh để đạt tới tự do đích thực.

Lần đại hội tập kết kinh điển thứ ba được tổ chức dưới sự bảo trợ của vua Ashokha vào khoảng 325 TCN. Ashokha là quân vương của đế quốc Magadha (phiên âm Hán Việt: Ma Kiệt Đà). Vùng đất của đế quốc này thuộc đồng bằng sông Hằng, bang Bihar – Ấn Độ ngày nay. Vào thế kỷ thứ 4 TCN, đế quốc này đã thâu tóm được miền Bắc Ấn, sau đó rơi vào sự đô hộ của Alexandria Đại Đế nhưng triều đại triều đại Maurya đã phục hưng lại quyền lực của quý tộc người Ấn. Ashokha là một trong số các vị vua của triều đại Maurya, người đã thống nhất Ấn Độ. Với tiềm lực quân sự và chính trị của mình, vua Ashokha đã truyền bá Phật giáo đến Srikanka, Đông Nam Á, Tây Á, Trung Đông… Nguyên nhân của cuộc tập kết lần thứ ba này là do những mâu thuẫn trong tăng đoàn về vấn đề pha tạp giáo lý ngoại giáo với giáo lý của Đức Phật. Về hình thức, lần tập kết đại hội này vãn giống hai lần tập kết trước, và đi đến sự thống nhất trong hệ thống kinh điển bằng việc tổ chức bộ Tripiṭaka (tức Tam Tạng: gồm Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng) và bổ sung Kathàvatnu (tức Thuyết Sự) được soạn bởi Moggaliputta-tissa – chủ tọa của đại hội, vào Luận Tạng. Trong lần tập kết này, Moggaliputta-tissa phủ nhận toàn bộ các giáo lý mà ông cho là dị giáo mà chỉ thừa nhận những gì ông cho là Phật giáo chân chính. Tuy nhiên, cuộc tập kết kinh điển lần thứ ba này chỉ được ghi chép lại trong Luật tạng của Phật giáo Thượng tọa bộ trong khi Đại chúng bộ lại không hề được nhắc tới.

Đại hội tập kết kinh điển lần thứ tư là tên gọi chung của hai cuộc tập kết tại Srilanka (25TCN) và Kashmir (78SCN). Dấu tích của hai cuộc tập kết kinh điển này còn được lưu lại đến nay bằng văn bản. Đây có thể xem làm những lần đầu tiên kinh Phật được ghi lại bằng chữ, bởi vì họ bắt đầu ý thức được sự nguy hiểm của việc không lưu trữ kinh điển trong khi chiến tranh liên miên có thể gây ra cái chết của các trưởng lão dẫn đến thất truyền giáo lý. Kinh văn sau lần tập kết ở Srilanka được ghi chép trên lá cọ, còn tại Kashmir được ghi chép trên các lá bằng đồng. Kinh văn trong lần tập kết kinh điển tại Kashmir không được Theravāda thừa nhận vì đây là cuộc tập kết của các tu sĩ trong phái Sarvastivada ( tức Nhất thiết hữu bộ )- chi phái Phật giáo hoạt động chủ yếu ở Kashmir và Gandhara. Giáo lý của Nhất thiết hữu bộ nằm giữa tiểu thừa và đại thừa, trình bày quan điểm về bản chất của tồn tại.

Ở cái nhìn của Đại chúng bộ, bác bỏ những luật cấm đối với các tu sĩ thuộc dòng này chính là sự hướng tới tự do. Những người theo Đại chúng bộ cho rằng mười vị trưởng lão phản đối việc nới lỏng giới luật sau lần tập kết kinh điển lần thứ hai là chấp vào giới luật – những điều mà Thích Ca Mâu Ni đã dặn dò Ananda rằng có thể thay đổi tùy theo thời thế. Sau lần tập kết kinh điển lần thứ hai, hơn mười ngàn người thuộc Đại chúng bộ đã tổ chức một cuộc tập kết kinh điển riêng với tên gọi “Tuyên đọc của Đại chúng bộ”. Sự tập kết kinh điển của Đại chúng bộ bị Thượng tọa bộ công kích, cho rằng Đại chúng bộ đã bịa đặt và lắp ghép các kinh điển theo ý mình. Tuy nhiên, khi Fumio Masutani, một học giả Phật giáo thực hiện so sánh giáo lý trong hai bộ kinh điển của Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ thì không thấy có nhiều khác biệt. Cho đến nay, vẫn có nhiều quan điểm cho rằng Thượng tọa bộ là Phật giáo chính thống còn Đại chúng bộ là dị giáo, và vấn đề này cần phải được xem xét một cách cẩn trọng với cái nhìn rộng mở và công tâm. (11)

Đại chúng bộ có sự khác biệt với Thượng tọa bộ về quan niệm thực tại. Đại chúng bộ cho rằng tất cả đều chỉ là hư huyễn, cho dù là tuyệt đối hay tương đối, Niết bàn hay Luân Hồi, thế gian hay xuất thế gian. Những khái niệm ấy không thực sự trường tồn và không phải là chân thực và Đức Phật là người siêu vượt khỏi thế giới hư huyễn mà chúng ta đang mắc kẹt trong đó. Trong khi ấy, Thượng tọa bộ lại quan niệm rằng Đức Phật chỉ như người thường và có những hạn chế, còn các A la hán là những vị có được “thể tính cao khiết” (12).

Niên đại của các kinh điển của Đại chúng bộ không thể xác định rõ ràng, tuy nhiên, lịch sử Trung Quốc ghi nhận những kinh điển của Đại chúng bộ bắt đầu được lưu truyền và dịch sang tiếng Hán vào cuối thời Đông Tấn ( đầu thế kỷ 5 SCN). Trong suốt thời kỳ Ngũ Hồ Loạn Hoa và Nam Bắc triều kéo dài từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 7, Phật giáo Đại chúng bộ được lan truyền ở Trung Hoa. Thái độ của các quân vương Trung Hoa đối với Phật giáo rất khác nhau, có vị yêu thích Phật giáo, có vị bài trừ Phật giáo, điều đó cho thấy Phật giáo đã có sức ảnh hưởng rất lớn đến xã hội Trung Hoa bấy giờ.

Một vấn đề khác cần được xem xét đó là Hīnayāna (Tiểu thừa) và Mahāyāna (Đại thừa). Trước nay, các nhà nghiên cứu và các tu sĩ đều đồng nhất Tiểu thừa với Thượng tọa bộ còn Đại thừa với Đại chúng bộ nhưng quan điểm này có nhiều điểm đáng bàn cãi.

Đại thừa là pháp tu của bồ tát với nguyên lý đạt đến giác ngộ toàn triệt bằng vì mục đích cứu rỗi chúng sinh. Dấu vết cổ xưa nhất được ghi lại của khái niệm này là trong kinh Saddharma Puṇḍarīka Sūtra (Diệu pháp liên hoa hay kinh Pháp hoa) có niên đại trong khoảng từ thế kỷ I TCN đến thế kỷ I SCN. Khái niệm này ban đầu có thể không hẳn để chỉ một chi phái mà là một phong trào để kích thích sự tinh tấn trong tu hành ở các tu sĩ và quan điểm cho rằng có sự liên đới giữa Đại thừa và Đại chúng bộ là bởi các kinh sách của Đại chúng bộ đều được coi là những kinh điển quan trọng của Đại thừa. Những kinh điển Đại thừa được lưu truyền hiện nay đều là những bản kinh đã được dịch sang tiếng Hán và chúng đều không hướng tới việc thành lập một giáo phái hay tổ chức thờ phụng, mà chỉ đề xướng tu khổ hạnh, ẩn cư trong rừng núi và thực hành thiền định. Về sau, Đại thừa phân chia thành hai phái lớn là Mādhyamika (Trung quán tông) và Vijñaptimātravādin (Duy thức tông), trong đó Trung quán tông đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành Kim cương thừa còn các kinh điển của Duy thức tông được lan truyền rộng rãi ở Trung Hoa vào thời Đường nhờ đại sư Huyền Trang.

Các nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm “tiểu thừa” là một khái niệm được thêm vào để tạo ra sự tương phản với “đại thừa” khi phong trào này lan rộng trong Phật giáo. Rất khó có thể định nghĩa chi phái nào của Phật giáo có xu hướng “tiểu thừa”. Tuy nhiên, tiểu thừa thường được gán với Phật giáo Thượng tọa bộ tuy nhiên có nhiều chi phái nhỏ của Thượng tọa bộ vẫn tiếp thu tư tưởng đại thừa (13). Cho đến nay, khái niệm “tiểu thừa” đã bị bác bỏ khỏi Phật giáo.

Với sự phân nhánh và chuyển mình phức tạp với rất nhiều chi phái nhỏ, Phật giáo có một hệ thống kinh điển đồ sộ được tập kết và ghi chép, chỉnh sửa, dịch thuật liên tục. Rất khó có thể biết được Thích Ca Mâu Ni đã thực sự giảng giải những gì cho đệ tử của mình, tuy nhiên, các trước tác kinh điển Phật giáo vẫn ẩn chứa đâu đó tinh thần tự do mà Thích Ca Mâu Ni đã truyền lại cho thế gian.

Bảng niên đại từ khi Đức Phật thuyết pháp đến khi Thiền tông lan truyền ở Trung Hoa

Lưu ý: Các niên đại được ghi chỉ mang tính tương đối và vẫn còn nhiều tranh cãi

II – Phật giáo đang thờ ai?

Giáo lý Phật giáo cũng không khuyến khích cầu nguyện mặc dù truyền thống cầu nguyện đến nay trở nên rất phổ biến ở đa số các chi phái Phật giáo. Một khái niệm tương tự với cầu nguyện là pràrthanà (có nghĩa là mong ước, phát nguyện) nhưng không phải cho lợi ích của bản thân mình mà vì điều thiện cho người khác hoặc sự hướng tới Phật (14). Tuy nhiên sự cầu nguyện này thường bị các tín đồ hiểu lầm thành sự cầu nguyện cho bản thân và những người thân của mình có một đời sống gặp nhiều an lành, may mắn. Sự hiểu lầm này có thể được hình thành nên do tâm thức thờ cúng nguyên thủy mà người dân vẫn quen thuộc trong mọi nền văn hóa dành cho các vị thần ban phúc giáng họa. Do đồng nhất Phật giáo với tục thờ cúng thần linh nên các vị Phật và bồ tát cũng dần mang ý nghĩa ban phúc giáng họa trong suốt quá trình phát triển của Phật giáo. Đặc biệt với Phật giáo đại thừa vốn tôn sùng Quán Thế Âm bồ tát vì niềm tin rằng vị này có ý nguyện cứu khổ cứu nạn nên có thể giúp người dân tránh được tai ương.

Niềm tin của Phật giáo đại thừa về Bodhisattva (bồ tát) lại càng kích thích sự tôn sùng Phật giáo mù quáng trong giáo chúng. Phật giáo đại thừa tin rằng bồ tát là những vị đạt được trí tuệ nhưng có nguyện nhận mọi đau khổ của thế gian vào mình và cứu rỗi thế gian. Trong các bài giảng nguyên thủy và kinh điển của Thượng tọa bộ, bồ tát không mang ý nghĩa như vậy, mà được sử dùng để ám chỉ những vị tu sĩ phát nguyện trở thành một vị Phật và được một vị Phật tại thế tiên đoán về khả năng thành Phật. (15) Khái niệm bồ tát được đề cập cổ xưa nhất trong các truyền thuyết về sự ra đời của Đức Phật (Tiền kiếp của Đức Phật vốn là một vị bồ tát chưa đắc quả vị Phật) và những truyền thuyết này được lưu trong Jātakas (Bản sinh bộ) thuộc truyền thống Thượng tọa bộ, Đại chúng bộ không thừa nhận những Jātakas được soạn trong triều đại của vua Ashokha. (16) Các vị vua của Sri Lanka thường tự nhận hoặc được ca tụng là bồ tát vì họ đã phát nguyện hành động vì người dân trong suốt quãng thời gian từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ 15, thậm chí một vài vị còn nói rằng họ đã nhận được tiên đoán về quả vị Phật từ kiếp trước. (15) Bên cạnh các vị “bồ tát tại thế”, một loạt các vị bồ tát siêu việt cũng được tôn sùng và thờ phụng tại nhiều tăng viện cùng với sự ảnh hưởng của xu thế đại thừa (Nguồn gốc của các vị bồ tát này sẽ được đề cập ở phần II-2).

Đáng lưu ý là các Stupa (có nghĩa là “gò, đống”) – các công trình bảo tháp lưu giữ các thánh tích hoặc tượng Phật và các cao tăng được xây dựng khắp Ấn Độ, đặc biệt bắt đầu dưới thời Ashokha. Đây là hình thức sơ khai của chùa mà Phật giáo Trung Quốc vẫn gọi. Các tu sĩ thường đi vòng quanh các Stupa để thể hiện sự sùng kính. (17) Khi du nhập vào Trung Quốc, bảo tháp được xây thành một quần thể với chùa (tự). Bắt nguồn của khái niệm “tự” để gọi nơi các sư tu hành và truyền bá Phật pháp đến từ sự kiện hai vị sư từ Thiên Trúc sang thăm Trung Quốc vào thời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, do chưa có cơ sở Phật giáo tại Trung Quốc nên triều đình nhà Hán đã sắp xếp cho hai ông ở trong Hồng Lô Tự, một dinh dành cho quan lại nên từ đó “tự” được sử dụng để gọi các ngôi chùa. (18) Một thuyết khác cho rằng từ “Tự” là phiên âm tiếng Hán của stupa và cấu trúc chùa Trung Hoa là sự phát triển của bảo tháp ở Gandharan. (19). Ngôi chùa trong văn hóa Trung Hoa không chỉ là nơi tu tập và thuyết pháp của các sư, khi được dung hợp với Đạo giáo thần tiên, chùa trở thành nơi chúng sinh đến cầu xin may mắn. Đặc biệt khi Tịnh Độ tông được truyền vào Trung Hoa, truyền thống thờ cúng và cầu nguyện càng được phổ biến rộng rãi, lấn át mục đích tu tập và thuyết pháp.

Bảng thống kê các vị Phật, bồ tát và thần, quỷ phổ biến trong Phật giáo

Phân loại theo quả vị và dựa trên quan niệm của đại thừa

Thích Ca Mâu Ni

Bodh Gaya: Nơi Đức Phật thành đạo. Đạo tràng được xây dựng lại nhiều lần bắt đầu từ thời vua Ashokha

Kushinagar: Nơi Đức Phật nhập Niết Bàn. Tại đây còn vết tích tượng Phật và cột đá ghi lại sự việc được dựng dưới thời vua Ashokha

Lumbini: Địa danh không rõ ràng và chỉ được xác định bởi cột đá được dựng dưới thời vua Ashokha

Sarnath: Nơi Phật thuyết pháp đầu tiên. Di tích còn lại là tháp Dhamekh dưới triều đại Gupta (Thế kỷ VI)

Được đề cập đến đầu tiên trong Kinh Tạng (thuộc Tam Tạng). Một lần với cái tên Tissametteyya trong cuộc hỏi đáp giữa Tissametteyya và Thích Ca Mâu Ni về ái dục. Một lần khác trong bài kinh 26 về “Sư tử rống chuyển bánh xe đại pháp” như vị Phật vị lai. Nhà nghiên cứu Phật học Richard Gombrich cho rằng đoạn kinh viết về Di Lặc bị ảnh hưởng của thuyết mạt thế hoặc đã bị viết thêm vào, vì khi Thích Ca Mâu Ni thuyết về Di Lặc thì không có bối cảnh hỏi đáp đi kèm giống như những bài kinh khác (23).

Một giả thuyết khác cho rằng Di Lặc chính là vị thầy của sư Vô Trước – người sáng lập phái Duy Thức, được gọi với tên Maitreya-nātha (270 – 350 SCN). (25) Vô Trước là người đã được Di Lặc khải lộ về

Nhiều vị vua hoặc giáo chủ mới cũng tự xưng mình là hóa thân của Di Lặc để khai tông lập phái hoặc tạo ảnh hưởng.

Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja Sūtra (Kinh Dược Sư) mô tả Phật Dược Sư như vị bồ tát đã thực hiện 12 ý nguyện và đắc Phật. Bộ kinh được lưu truyền không chỉ có bản tiếng Hán mà người ta còn tìm thấy bản kinh Gandhāra lưu truyền ở Bắc Ấn có niên đại thế kỷ thứ 7.

Theo Kāraṇḍirlha Sūtra (soạn trong thế kỷ IV – V), mặt trời và mặt trăng được cho là được sinh ra từ đôi mắt của Avalokiteśvara, Shiva từ trán, Brahma từ vai, Narayana từ trái tim, Sarasvati từ răng, gió từ chân và bầu trời từ dạ dày của ngài. Cũng trong kinh này, Om mani padme hum được nhắc đến như thần chú dẫn tới giải thoát cuối cùng. (27) Các kinh đại thừa khác cũng đều nhắc đến Quán thế âm bồ tát.

Quán thế âm bồ tát là vị bồ tát đại thừa đầu tiên được thờ trong Phật giáo Thượng tọa bộ. Ở Tích Lan, Quán Thế Âm được gọi là Natha-deva và đồng nhất với Maitreya, tuy nhiên các học giả phương Tây đã chỉ ra Natha-deva chính là Quán Thế Âm. Natha-deva có một ban thờ riêng cạnh ban thờ Phật. (28)

ở Myanmar, ngài được gọi là Lokanat hoặc lokabyuharnat, và Thái Lan thì được gọi là Lokesvara có nghĩa là chúa tể của thế gian.

Kṣitigarbha Bodhisattva Pūrvapraṇidhāna Sūtra (Kinh Địa Tạng) là bộ kinh đầu tiên nhắc tới Địa Tạng với ý nguyện giải thoát chúng sinh khỏi địa ngục cho đến khi Di Lặc xuất thế. Kinh Địa Tạng có xuất xứ không rõ ràng và không tìm được bản tiếng Pali hay Sankrite mà chỉ còn lưu lại bản dịch sang tiếng Hán nên nhiều học giả hoài nghi rằng cuốn kinh này được viết bởi người Trung Quốc. Kinh Địa Tạng đề cao chữ hiếu và có nhắc đến câu chuyện tiền kiếp của Địa Tạng là một cô gái xả thân cứu mẹ khỏi khổ hình ở địa ngục. Câu chuyện này có nhiều tương đồng với câu chuyện về tôn giả Mục Kiền Liên, một trong mười đại đệ tử của Đức Phật.

Văn thù sư lợi được nhắc đến đầu tiên trong ārya-mañjuśrī-mūlakalpa (Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ), đại diện cho trí huệ soi sáng khỏi vô minh. Luận sư Tsongkhapa trong Phật giáo Tây Tạng được cho là hóa thân của Văn thù sư lợi. Văn thù sư lợi thường được tán tụng bởi các sư thuộc Trung quán tông trước giờ họ học kinh điển.

Trong Phật giáo Tây Tạng, Văn thù sư lợi được biểu hiện với một hóa thân khác là

Yamāntaka (có nghĩa là kẻ hủy diệt của thần Yama) với khuôn mặt phẫn nộ với cặp sừng bò trên đầu, phổ biến trong trường phái Gelug (Tây Tạng). (34)

Phổ Hiền thường được mô tả dáng hình giống nữ, cưỡi trên con voi màu trắng, đứng bên cạnh Thích Ca Mâu Ni cùng với Văn thù sư lợi.

Mahamayuri-Vidyaraini-Sutra gọi Khổng Tước Minh Vương là “nữ hoàng của huyền thuật”, mẹ của Đức Phật trong Phật giáo Đại thừa. Tương truyền là một con công từ thời khai thiên lập địa, có sức mạnh vảo vệ các tín đồ Phật giáo. Đây là kinh Phật giáo duy nhất nhắc đến kinh Rigveda.

Trong những truyền thuyết Phật giáo thời kỳ đầu, Vajrapāni là một vị tiểu thần đi theo Thích Ca Mâu Ni và bảo vệ Thích Ca Mâu Ni khỏi những mối đe dọa. Điều này được ghi lại trong Tam Tạng. Có thuyết cho rằng ông là một pháp thân của Sakra – thượng đế cõi trời Trāyastriṃśa, hoặc thần mưa trong truyền thống Gandharva. Ông tự hóa thành tám thân quỷ để bảo vệ Thích Ca Mâu Ni. (36)

Giống loài Asura (Atula)

Tranh Đôn Hoàng hang đá số 249 mô tả Asura có 4 tay 2 đầu, thân hình màu đỏ.

Được mô tả nửa người nửa chim, hoặc nửa người nửa ngựa, là các thần giỏi ca hát và chung tình. Kinara rất phổ biến và được giữ đúng tính chất trong cả truyền thống Hindu giáo và Phật giáo.

Là tên gọi của rắn thần, vua các loại rắn, những con rắn nằm sâu dưới lòng đất đôi khi tạo ra động đất. Được ghi lại trong kinh Lăng Nghiêm như một giống loài đần độn vô tri và bị sâu bọ rúc rỉa, nhưng muốn thoát khổ nên đã thực hành Phật pháp.

Một trong số các đệ tử tại gia của Thích Ca Mâu Ni, người đã hào phóng cấp chỗ ở và cúng dường cho tăng đoàn cũng như bố thí cho người vô gia cư. Ông được nhắc đến trong Tam Tạng.

Là vị vua tri thức được đề cập trong kinh Đại Nhật, đã chinh phục ba thế giới Tham – Sân – Si, cai quản phía đông của thế giới. Ông là người đã đánh bại Maheśvara (Shiva) (39)

Tên của ngài có nghĩa là bảo hộ quốc gia, và cũng được nhắc đến trong Tam Tạng của Thượng tọa bộ.

The early history of India : from 600 B.C. to the Muhammadan conquest, including the invasion of Alexander the Great – Vincent A.Smith (trang 34, 48/ Link sách online: https://archive.org/details/earlyhistoryofi00smit )

The Long Discourses of the Buddha. A Translation of the Digha Nikaya, Boston: Wisdom Publications, 1995 – Maurice Walse (trang 268)

Greek Buddha: Pyrrho’s Encounter with Early Buddhism in Central Asia. Princeton University Press. – Christopher I. Beckwith (2015). (trang 7-12/ Link sách online: https://books.google.com.vn/books?id=RlCUBgAAQBAJ&pg=PA7&redir_esc=y#v=onepage&q&f=false)

The Ancient City of Kapilvastu-Revisited – Swoyambhu D. Tuladhar (Bản đọc online: https://himalaya.socanth.cam.ac.uk/collections/journals/ancientnepal/pdf/ancient_nepal_151_01.pdf )

Gotama Buddha: A Biography Based on the Most Reliable Texts, Quyển 1. Kosei Publishing Company, 2000 – Hajime Nakamura (trang 124)

Nhất Hạnh (thuật ký) Đại Nhật Kinh Nghĩa Thích. Taisho Tripitaka Vol. T18, No. 848

That the True Dhamma Might Last a Long Time, Readings Selected by King Asoka, được tuyển chọn và dịch bởi Thanissaro Bhikkhu (Bản đọc online: https://www.accesstoinsight.org/lib/authors/thanissaro/asoka.html )

Ancient Buddhist Scrolls from Gandhara – Richard Salomon (Bản đọc Online: https://www.washington.edu/uwpress/search/books/SALANC.html )

Bản dịch tiếng Anh online của Buddhacarita: https://www.sacred-texts.com/bud/sbe49/sbe4901.htm

A Concise History of Buddhism – Andrew Skilton (2004) (trang 49-64)

https://www.tuvienquangduc.com.au/kinhdien-2/390nentangkettaplan2.html

Indian Buddhism- A.K. Warder (2000) , Delhi: Motilal Banarsidass Publishers (trang 283,284)

Phật giáo Nguyên Thủy: Lịch sử xã hội – Richard Francis Gombrich (1988) (trang 158)

https://thuvienhoasen.org/a25030/y-nghia-cua-cau-nguyen-cau-an-va-cau-sieu

Mahayana Sutras and the Opening of the Bodhisattva Path – David Drewes https://www.academia.edu/34935437/Mahayana_Sutras_and_the_Opening_of_the_Bodhisattva_Path_Updated_2019_?email_work_card=title

Sects & Sectarianism: The Origins of Buddhist Schools – Sujato, Bhikkhu (2006) (trang 51)

A Dictionary of Architecture and Landscape Architecture- James Stevens Curl (2000 Oxford University Press)

Từ điển Hán Nôm online (Link tra cứu: https://hvdic.thivien.net/whv/%E5%AF%BA )

Buddhist architecture -Lê Hữu Phước (Grafikol, 2009) (Trang 180)

Indian Buddhism: A Survey With Biographical Notes – Hajime Nakamura (1999) (trang 205)

On the origins of Mahāyāna Buddhism – Shinkan Murakami (Link đọc online: https://web.archive.org/web/20130612150915/https://old.ykbi.edu.tw/htm/ykbi16/ykbi16_1.pdf )

https://www.vbu.edu.vn/referances/RP-8/Vai-net-so-luoc-ve-nghe-thuat-Phat-giao-Gandhara-Pakistan.html

Theravada Buddhism: A Social History from Ancient Benares to Modern Colombo – Richard Gombrich (Routledge and Kegan Paul, 1988) (trang 83-85)

Chinese Sculpture – Angela Falco Howard (Yale University Press, 2006) (trang 228)

Being as Consciousness: Yogācāra Philosophy of Buddhism – Fernando Tola and Carmen Dragonetti (Motilal Banarsidass, 2004) (trang 15)

https://vuonhoaphatgiao.com/tu-dien-phat-hoc/a-dat-da/

The Origins of Om Manipadme Hum: A Study of the Karandavyuha Sutra- Alexander Studholme (State University of New York Press, 2002) (trang 39-40)

Buddhist Sects and Sectarianism – Bibhuti Baruah (2008) (trang 137)

Bodhisattva Avalokiteśvara in the Gaṇḍavyūhasūtra – Märt Läänemets (Link đọc online: https://www.chibs.edu.tw/ch_html/chbs/10/chbs1011.htm )

Arya Avalokitesvara and the Six Syllable Mantra #2 – Venerable Shangpa Rinpoche (Đọc online: https://web.archive.org/web/20070927222250/https://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/chemin/medit/methodes/avalokitesvara_shangpa2.htm )

https://www.chinabuddhismencyclopedia.com/en/index.php/Mahasthamaprapta_(Shih_Chih,_Seishi)

Đàm thiên thuyết địa luận nhân, Ngô Bạch, Trương Huyền dịch, Nhà xuất bản Thời đại 2011

Đàm thiên thuyết địa luận nhân, Ngô Bạch, Trương Huyền dịch, Nhà xuất bản Thời đại 2011

https://tibet.net/2018/12/his-holiness-the-dalai-lama-confers-the-solitary-hero-yamantaka-empowerment-in-bodh-gaya/

https://www.lankalibrary.com/myths/gods.htm

The Gods of Northern Buddhism: Their History and Iconography (1988) – Alice Getty https://books.google.com.vn/books?id=KxczE2AZ7T8C&pg=PA52&redir_esc=y#v=onepage&q&f=false

In the art of Gandhara Zeus became the inseparable companion of the Buddha as Vajrapani. Freedom, Progress, and Society – K. Satchidananda Murty, R. Balasubramanian, Sibajiban Bhattacharyya (Motilal Banarsidass Publishe, 1986) (trang 97, Đọc Online: https://books.google.com.vn/books?id=KQubSpHFrKQC&pg=PA97&redir_esc=y#v=onepage&q&f=false )

Japanese Art – Miyeko Murase (1975, Metropolitan Museum of Art) (trang 31, 32 – Link online: https://books.google.com.vn/books?id=ZQ8NAl2Bj-4C&pg=PA31&redir_esc=y#v=onepage&q&f=false )

Study on Buddhist iconography of India from unpublished texts – Alfred Foucher ( Paris, E. Leroux, 1905)

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đặt Tên Con Gái Theo Phật Giáo trên website Welovelevis.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!