Cập nhật nội dung chi tiết về Đặt Tên Tác Phẩm mới nhất trên website Welovelevis.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thứ hai – 20/07/2020 09:01
Viết văn là nghề có từ lâu đời và bao nhiêu tác phẩm đã được tạo ra, khó khăn trong việc đặt tên là nó rất dễ trùng tên với những tác phẩm đã từng tồn tại. Những cái tên đại loại có những cụm từ như: “Lần cuối cùng”, “Đêm cuối”, “Ngày đầu tiên”… đã bị vô số người sử dụng. Nếu lặp lại những cụm từ ấy dễ dẫn đến sự hiểu lầm hoặc lẫn vào trong đám đông hoặc biểu hiện của sự thiếu tìm tòi và sáng tạo.
Không riêng gì tên tác phẩm, ngay cả tên người thiên hạ đã đặt hết cả rồi những cái tên Tuấn, Mai, Hiền, Thảo, Vũ… nhìn đâu cũng thấy. Tìm một cái tên mới không trùng ai và tạo được ấn tượng là điều vô cùng khó khăn, thậm chí trong một số trường hợp là bất khả.
Chính tôi đã rơi vào những trường hợp khóc dở, mếu dở. Tìm được một cái tên ưng ý, trước khi tác phẩm mang đi nhà in thì phát hiện có người dùng cái tên ấy rồi, thế là buộc lòng phải tìm một cái tên khác thay thế, khi sách in ra vẫn không thấy thoả mãn với nó.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần.
Nhưng cũng có rất nhiều người giỏi đặt tên, họ tạo những cái tên rất ấn tượng, đọc lên đã thấy hấp dẫn và gần như không trùng ai. Một trong người đặt tên hay là Nguyễn Ngọc Thuần.
Hãy đọc thử những cái tên tác phẩm của anh mà xem: “Trên đồi cao chăn bầy thiên sứ”, “Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ”, “Vào ngày đẹp trời người nhổ khoai mì bị rắn độc cắn”… Mỗi cái tên đều rất gợi, khá dài và mang sẵn một sự khiêu khích nào đó.
Khi được hỏi về cách đặt tên tác phẩm, Nguyễn Ngọc Thuần đã thú nhận rằng, anh thường nghĩ tên tác phẩm trước, khi nào đặt được cái tên hay, ưng ý anh mới bắt đầu viết. Đây là một cách độc đáo và thú vị vì thông thường người ta sẽ nghĩ ra một vài ý tưởng rồi mới viết, cái tên ban đầu chỉ là một phương án chứ không thể quyết định sự viết. Nếu đặt được một cái tên độc đáo rồi mới viết thì điều ấy quả rất lạ hoặc Nguyễn Ngọc Thuần đã nói đùa!
Cách đặt tên dài là một kiểu khá phổ biến thời gian gần đây, đó là một cách chống lại sự trùng lặp và “gây hấn” với độc giả. Hồ Anh Thái cũng là một trong những người đặt tên khá thú vị. Đây là tên một số tác phẩm của anh: “Cõi người rung chuông tận thế”, “Cả một dây theo nhau đi”, “Mua tranh Van Gogh để đốt”… Những tiêu đề của Hồ Anh Thái thường đi thẳng vào nội dung tác phẩm, ít khi ẩn dụ hay ngầm ẩn.
Nhưng không phải bây giờ các nhà văn mới đặt tên tác phẩm dài và tạo một cú huýnh vào tâm lý của độc giả. Các cây bút tiền chiến xưa cũng từng có cách đặt tên khiến người đọc phải giật mình. Vũ Trọng Phụng có những cái tên rất gây sốc: “Kĩ nghệ lấy Tây”, “Làm đĩ”, “Một con chó hay chim chuột”… Chỉ đọc tên tác phẩm đã biết tác giả chơi một cú “vỗ mặt”. Tôi chắc hẳn những dòng tít không biết nể nang này đã góp phần làm nên sự thành công của Vũ Trọng Phụng.
Nam Cao cũng là một người đặt tên hay, ông có những truyện tên rất gợi như: “Cái mặt không chơi được”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Mò sâm banh”… Nhưng không phải tác phẩm nào Nam Cao cũng thành công trong việc đặt tên. Xem lại những lần ông thay đổi tên gọi tác phẩm, ta thấy rằng nhà văn cũng vật vã với nó lắm.
Một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao, lần đầu ông gọi nó là “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách, nhà xuất bản tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”, sau này in lại, ông đổi thành “Chí Phèo”. Và tôi đồ rằng từ ngày được định danh “Chí Phèo”, sự lan toả và danh tiếng của tác phẩm được biết đến nhiều hơn so với hai cái tên ban đầu.
Và chính Nam Cao cũng từng có những cú bẻ ngược khác rất đáng chú ý, một cuốn tiểu thuyết của ông, ban đầu được đặt tên là “Chết mòn”, sau lại đổi tên là “Sống mòn”. Tất nhiên, chết mòn thì quá dễ, sống mòn mới đáng nể!
Một nhà văn nổi tiếng từ thời tiền chiến như Ngọc Giao có những tác phẩm rất trữ tình và dịu dàng như “Phấn hương”, “Cô gái làng Sơn Hạ”… bỗng “huỵch” một phát đặt tên cho một truyện ngắn cái tên rất khiêu khích: “Đời tư Lã Bố”! Có lẽ chính vì cái tên rất khác người này mà tác phẩm này đã được nhiều nhà xuất bản hồi ấy in vào tuyển tập và tôi chắc hẳn độc giả khi nhắc đến cái tên truyện đều không khỏi tò mò, thế mà Ngọc Giao đã đặt tên kiểu đó từ năm 1938!
Nhà văn Hồ Anh Thái.
Đó là những kiểu tên dài và thách thức, có những nhà văn lại thích đặt những cái tên thật ngắn, thậm chí là một chữ. Những kiểu đặt tên này mang lại một hương vị khác lạ, nó ngầm ẩn và thách thức. Nguyễn Bình Phương có “Ngồi”, Nguyễn Ngọc Tư có “Sông”, Nguyễn Đình Tú có “Nháp”…
Các nhà văn nước ngoài nhiều người cũng có cách đặt tên rất hay. Ta có thể vài cuốn đình đám quen thuộc với độc giả Việt. Đó là “Gone with the wind” của Margaret Mitchell – Cuốn theo chiều gió, “For whom the bell tolls” của Ernnest Hemingway – Chuông nguyện hồn ai, “The call of the wild” của Jack London – Tiếng gọi nơi hoang dã…
Có những kiểu tên được đặt theo những khái niệm. Phong cách này thường được các nhà văn cổ điển ưa thích như các cuốn: “Chiến tranh và hòa bình”, “Tội ác và hình phạt”, “Kiêu hãnh và định kiến”, “Lý trí và tình cảm”… Các nhà văn Việt ít khi đặt tên theo kiểu khái niệm vì cho rằng nó quá Tây và cứng nhắc. Nhưng làm gì có khuôn vàng thước ngọc nào cho việc đặt tên, thế này hoặc thể kia!
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi phải 7 lần đổi tên vì những lí do khác nhau và tôi cũng muốn nó thuần Việt theo tư duy người Việt nhưng rốt cục tôi đã “nhượng bộ” người biên tập cuốn sách và đặt tên nó là “Tưởng tượng và dấu vết”. Nhiều người bảo cái tên đó trúng, người khác thì nói nó quá cứng! Cũng không thể nào chiều hết mọi người và thậm chí ngay cả những tác phẩm đã rất nổi tiếng, người viết vẫn luyến tiếc về cái tên của nó.
Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh ban đầu có tên là “Nỗi buồn chiến tranh”, sau đó đến nhà xuất bản, biên tập viên đổi là “Thân phận của tình yêu”, lúc tái bản, Bảo Ninh lấy lại tên cũ nhưng sau rốt ông lại thú nhận, giá kể cuốn sách chỉ mang tên “Nỗi buồn” là đủ, thêm từ “chiến tranh” là không cần thiết!
Một kiểu đặt tên ưa thích của người viết là lấy luôn tên nhân vật chính làm tên tác phẩm. Những tác phẩm kiểu này rất nhiều như: “Anna Karenina”, “Bà Bôvary”, “Lão Hạc”, “Hồ Quý Ly”… Kiểu đặt tên này đơn giản và tiện lợi vì nhân vật được tên đặt là nhân vật trung tâm và có ảnh hưởng lớn dễ tạo hình ảnh. Nhưng bây giờ ở các tác phẩm hiện đại, tác giả có khuynh hướng xây dựng nhiều nhân vật chính mà ít có nhân vật trung tâm hoặc nhân vật không đủ nổi bật nên cũng có ít tác phẩm đặt tên kiểu này.
Một câu hỏi đặt ra là tên tác phẩm có nhất thiết phải song hành với nội dung tác phẩm hay không. Tôi cho rằng điều này không nhất thiết. Tên tác phẩm song hành hay không không quan trọng, miễn là nó hay và có những gợi mở. Điều này sẽ phá vỡ được những định kiến và lối mòn đặt tên.
Nhiều tác giả không muốn hé lộ cho độc giả bất cứ điều gì qua cách đặt tên, họ cho rằng, tác giả không việc gì phải tiết lộ nội dung tác phẩm cho độc giả biết qua tiêu đề tác phẩm. Cứ để cho độc giả tự khám phá sẽ hấp dẫn và thú vị hơn. Một vài cái tên kinh điển thuộc thể loại này như: “Tên của đóa hồng” của Umberto Eco, “Tu viện thành Parma” của Stendhal…
Việc đặt tên tác phẩm giống như dán một cái nhãn hàng hóa, nó rất quan trọng trong việc thu hút độc giả. Ngày nay, văn học bị cạnh tranh khốc liệt với các loại hình khác và chính các tác giả cũng phải có những tư duy mới để có chỗ đứng và neo vào trí nhớ độc giả. Một cái tên hay và hấp dẫn đóng một vai trò nhất định trong sự thu hút này.
Tôi nhớ có lần đạo diễn Lê Hoàng kể, một bộ phim anh đạo diễn có cái tên dự định là “Trường hợp của Hạnh”. Rõ ràng đó là một cái tên quá cứng và khô. Lê Hoàng bảo, đặt tên đó thì “ma” nó mới đi xem phim! Khi đổi tên phim là “Gái nhảy” thì cái tên mới đã tạo được sự hấp dẫn lớn hơn nhiều và bộ phim đã từng là một hiện tượng đáng chú ý.
Tất nhiên, tên tác phẩm chỉ là một phần cấu thành tác phẩm, tên hay mà tác phẩm dở thì không làm gì nổi nhưng đương nhiên một cái tên ấn tượng sẽ có sức lan tỏa mạnh. Cô đọng hoặc khiêu khích, dài dòng hoặc cụt lủn hoặc bất cứ phong cách đặc biệt nào sẽ cộng hưởng với tác phẩm, khiến nó hấp dẫn và được chú ý hơn.
Và lúc này tôi lại nghĩ đến việc người ta đặt tên cho đứa con ruột của mình. Quá trình ấy thường rất lâu và tốn công sức nhưng khi lớn lên chưa chắc đứa trẻ đã hài lòng với cái tên bố mẹ nó đã tâm đắc ấy. Tên một tác phẩm cũng vậy, người viết có khi đắn đo cân nhắc lắm nhưng rốt cuộc khi ra công chúng chưa chắc đã được sự đồng tình, thích thú.
Đặt tên khó lắm, vì rốt cuộc khi đặt tên ta nghĩ đến điều gì? Nghĩ đến tác phẩm hay độc giả? Đừng tưởng đây là một câu hỏi dễ trả lời!
Uông Triều
Chớ Coi Nhẹ Việc Đặt Tên Tác Phẩm
Đặc biệt đối với phụ nữ, ví dụ những cô gái nào đó mang tên của đàn ông như: Chiến, Thắng, Thọ, Quang, Cường, Hùng, Dũng… v.v hoặc không được hay như Côn, Quốc, Quất, Cung, Kết… v.v rõ ràng là khiến ta không thích thú như mọi tên nữ tính khác, tuy có thể đã phổ biến (Hằng, Nga, Hương, Ngọc, Tuyết, Hoa, Quỳnh, Lan, Mai …v.v). Từng có nhiều cô gái lớn lên có nhan sắc “chim sa cá lặn”, đã rất phiền lòng bởi những cái tên cha mẹ đặt lúc lọt lòng cho “dễ nuôi” (Hĩm,Cún, Rô, Riếc, Thúng, Nong, Nia…v.v) và họ đã phải đổi tên.
Vậy thì tên tác phẩm cũng thế. Nhưng không phải người sáng tác nào cũng dụng công tìm tên phù hợp, gợi cảm, giàu biểu hiện cho tác phẩm của mình. Không ít tác giả nổi tiếng luôn coi nhẹ việc này. Và cũng không hiếm tác phẩm hay, có giá trị đã được mang những tên dễ dãi, không tương xứng. Nhạc sĩ Hoàng Vân là ví dụ tiêu biểu. Ông là một nhạc sĩ lớn, có sự nghiệp sáng tác đáng nể ở cả hai lĩnh vực thanh nhạc và khí nhạc, in đậm dấu ấn trong đời sống âm nhạc Việt Nam suốt nửa sau thế kỷ 20. Nếu ông công phu tìm tòi sáng tạo toàn bộ tác phẩm bao nhiêu thì lại đại khái cho việc đặt tên bấy nhiêu. Cứ viết về ngành nghề, lĩnh vực nào là ông đặt luôn “bài ca…” ( Bài ca giao thông vận tải, Bài ca trên nhịp cầu thương nghiệp, Bài ca người giáo viên nhân dân, Bài ca bên tay lái, Bài ca pháo kích, Bài ca người thợ mỏ…). “Quảng Bình quê ta ơi!” là một bài hát bất hủ, càng nghe càng cảm động. Đó là một tài sản tinh thần vô giá của người dân xứ sở này, không dễ có sự thay thế. Nhưng ông đã đặt tên ca khúc bằng một lời gọi. Nghe quen sẽ chẳng thấy gì, nhưng thử hình dung: Cứ viết về đâu là lại gọi tên nơi ấy lên rồi dùng làm nhan đề, ví dụ: “Hà Đông ơi! Sơn Tây ơi! Bắc Ninh ơi! Phú Thọ ơi!”… thì sao đây?
Rất nhiều người làm thơ có lẽ do… bí nên đã đặt tên cho sáng tác của mình là “Không đề”. Có những tập thơ chưa tới 100 bài mà có tới trên 10 bài mang cái tên như trên. Đúng là “Không đề” chẳng có nghĩa gì ngoài bài thơ không có tên. Điều này đã diễn ra nhan nhản khắp nơi, trở nên nhàm. Hầu như người làm thơ nào cũng ít nhất có một bài “Không đề”. Đáng tiếc là tên này rất nhiều khi được đặt cho những bài thơ hay, có giá trị mà hoàn toàn có thể mang tên khác đích đáng. Có tác giả lại còn có từ “Không đề 1” đến “Không đề 10” trong một tập thơ mỏng tang. Khó chấp nhận một lý do nào ngoài sự lười biếng của người sáng tác.
Nói đến Võ Huy Tâm – một nhà văn quen biết của ngành than, người ta nhắc ngay đến 2 tác phẩm văn xuôi là Vùng mỏ và Những người thợ mỏ, đều nói về đời sống người thợ mỏ ở vùng Quảng Ninh, nhưng cuốn thứ nhất đề cập đến họ thời kháng chiến chống Pháp, còn cuốn thứ 2 thời hòa bình (sau năm 1954). Đã có Vùng mỏ rồi thì cuốn sau không nên mang tên Những người thợ mỏ nữa mà cần nghĩ một tên khác, bởi vì dẫu là Vùng mỏ thì thực chất cũng là Những người thợ mỏ mà thôi (vì không lẽ cuốn trước lại chỉ nói về thiên nhiên, không gian, miền quê mỏ mà không nói đến con người?)
Đều có những giá trị nhất định, tuy có thể ở những mức độ khác nhau tạo nên diện mạo nền văn học kháng chiến (thời kỳ 1946-1954) nhưng Đất nước đứng lên có cái tên gây ấn tượng tiểu thuyết hơn là Con trâu. Tên sau có vẻ phù hợp với một truyện ngắn hơn là Tiểu thuyết. Cũng như vậy, ở giai đoạn hòa bình sau đó, Vỡ bờ gợi hơn là Cái sân gạch. Chu Lai là một cây bút văn xuôi quen biết với nhiều sáng tác có giá trị về chiến tranh. Nhưng Cuộc đời dài lắm có phần “thật thà”! Tiểu thuyết này hoàn toàn có thể mang tên khác tương xứng hơn.
Trong lĩnh vực điện ảnh, sự tùy tiện trong việc đặt tên tác phẩm cũng diễn ra, có khi khá… ngây ngô. Cách đây mấy năm, tôi xem được một bộ phim truyền hình có tên Tình yêu có bao giờ sai. Tình yêu không có truyện đúng, sai mà là kẻ đang yêu có những xử sự đúng sai mà thôi. (Đó là chưa nói về những phương diện diễn đạt, phải thay chữ có bằng chữ không) .Gần đây, có bộ phim truyền hình Vị giáo sư “tinh tướng”. Mặc dù từ tinh tướng đã được để trong ngoặc kép, nhưng người xem vẫn thấy không ổn. Đây là bộ phim theo phong cách nghiêm túc-chứ không phải hài hước. Nhân vật chính là một vị giáo sư rất đáng kính trọng về tài năng và nhân cách. Có lẽ bởi ông cứ rứt khoát xin về hưu trước tuổi mà mọi người cho ông là…tinh tướng. Từ này là tiếng lóng ngoài xã hội, thuộc loại ngôn ngữ kẻ chợ. Dùng cho một nhân vật như vị giáo sư rất thâm thúy, đôn hậu, trong phim quả là kỳ khôi – dẫu đó là ý nghĩ của kẻ khác về ông, cùng lắm chỉ có thể nói là vị giáo sư… “hâm”. Thành thử cái tên này đã làm tầm thường bộ phim đi đáng kể.
Có lần tôi xem một vở kịch nói có tên Không thể và có thể. Vở kịch không đến nỗi nào, có cái để xem. Tác giả đặt được ra đôi điều đáng để khán giả suy nghĩ. Nhưng cái tên “kín” quá và có vẻ như tên một bài báo.
Tất nhiên, giá trị, sức thuyết phục của tác phẩm nghệ thuật là ở nội dung. Vấn đề tuy nhỏ nhưng thiết nghĩ người sáng tác cũng nên để tâm, bởi khi nghe tên tác phẩm, tâm lý tự nhiên của bất cứ người thưởng thức nào cũng dễ chú ý hoặc ngược lại là thờ ờ, không thích đón nhận. Chắc chẳng tác giả nào lại muốn công chúng của mình ở vào trường hợp sau.
Nguyễn Đình San
7 Điều Nên Tránh Khi Đặt Tên Tác Phẩm
Sau một thời gian chơi ảnh , tôi được dịp rung động nhiều lần trước những tác phẩm của các anh chị em, và cũng không ít lần, tôi bị cảm giác hẫng hụt khi đọc tên tác phẩm .
Là một người yêu nhiếp ảnh say đắm, tôi có một vài điều góp ý nho nhỏ về việc đăt tên cho ảnh, hy vong rằng có thể giúp ích chút nào cho anh chị em ?
Thiết nghĩ đây cũng là một Kỹ thuật HẬU KỲ ?
Đặt tên cho ảnh. Nếu bạn có một đứa con xinh đẹp, thì tại sao bạn không đặt cho con minh một tên hay và ý nghĩa ?
ẢNH và TÊN ẢNH bổ trợ cho nhau, là hai yếu tố chuyển tải nội dung ảnh tới người xem. Nếu tên của ảnh gây ra một sự phản cảm, hoặc vô tình làm sai lệch và méo mó thông tin mà người chụp muốn truyền đạt tới người xem.
Đặt tên cho ảnh tựa như làm khai sinh cho đứa con tinh thần trước khi vào đời giao tiếp với xã hội. Nếu không có ngoại lệ cái tên ấy sẽ vĩnh viễn gắn với ảnh theo quy trình khép kín: cuộc sống – tác giả – tác phẩm – người xem – cuộc sống.
1.Tham khảo quá nhiều ý kiến.
Khi đặt tên tác phẩm, có nhà nhiếp ảnh tham vấn người có vị trí cao trong xã hội hoặc trong lĩnh vực bạn đang công tác. Có người còn xem việc đặt tên cho ảnh gắn liền với “cái tôi” nên có thể gây nhiều trắc trở ngầm trong mối quan hệ lâu dài. Để tránh vấp phải chuyện tế nhị , chỉ nên tham khảo ý kiến của những người giỏi chuyên môn thật thân thiết, càng cô đọng càng tốt.
Và đừng quên giử kèm một lời cảm ơn chân thành khi ảnh của bạn được nhiều người và cộng đồng chú ý, chỉ là một tab đơn giản tên họ vào bài đăng chẳng hạn, điều đó cũng đã là lời cảm ơn chân thành rồi đấy.
2.Sáo rỗng và khoa trương
Đây là bức ảnh chỉ có cảm xúc và khoảnh khắc lên ngôi, nội dung bình thường nhưng lại cố áp đặt một triết lý cao siêu. Việc này tựa như sính dùng chữ quá kêu đặt tên cho một sản phẩm chất lượng kém.
Tên ảnh khoa trương, sáo rỗng dễ gây phản cảm, đôi khi lại được hiểu là thiếu cẩn trọng !
3.Dài dòng và thiếu trọng tâm
Một bức ảnh biểu cảm lập tức thu hút ngay sự chú ý của mọi người, nên không nhất thiết phải cần dùng nhiều chữ minh hoạ – ngoại trừ ảnh báo chí cần chú thích hội đủ các thông tin cần thiết – tên ảnh quá dài dễ làm người xem mệt mỏi, ngại đọc bởi hình tượng mới là yếu tố quan trọng.
4.Trùng lắp và thiếu sinh khí
Dù vô tình hay cố ý, việc lấy nhầm cái tên đã thành danh của một bức ảnh khác đều gây ra sự nhàm chán và làm giảm giá trị của ảnh… Người xem cảm nhận sự thiếu đầu tư trí tuệ của chủ nhân bức ảnh.
Tựa như một thiếu nữ có nhan sắc đẹp nhưng vì khi xướng danh thì ai cũng phải ngẩn ngơ tiếc thầm vì tên quá nhạt không xứng với người !
5. Ảnh và tên chỉ là… một
Anh bạn chụp Hội An vào ban đêm rồi đặt tên cho ảnh là: “Đêm phố cổ” !. Chữ “đêm” ở đây là thừa, vì nhìn vào không gian hiện hữu ai cũng đã rõ. Một trong những nguyên tắc đặt tên cho ảnh là không tìm cách diễn giải những gì người xem đã thấy.
Cố gắng thoát khỏi nghĩa đen của ảnh bằng cách đọc vài tác phẩm văn học hay, vài bài thơ giàu cảm xúc… có thể nhiều ý tưởng mới sẽ đến… Vi vu cũng vài dòng thơ con cóc lại mang cảm xúc rất nhiều cho tác phẩm.
6.Đánh đố người xem
Đọc xong tên ảnh rồi nhìn vào hình tượng, suy nghĩ mãi chẳng thấy có mối liên hệ gần – xa nào !
Kiểu như lấy “râu ông nọ cắm cằm bà kia”… Đừng để rủi ro này xuất hiện bởi sai một ly có thể… đi một dặm.
7.Tối nghĩa và sai chính tả
Thật đáng tiếc khi điều này xảy ra bởi, bởi tự thân tên ảnh trở thành tấm gương phản ánh phần nào thực chất bản thân. Nếu tự thấy vốn văn học còn kém thì phải cố gắng khắc phục – bởi nhà nhiếp ảnh không chỉ biết chụp giỏi mà còn biết bảo vệ ý kiến trước đồng nghiệp và trước người xem.
Mỗi khi đặt bút viết hãy tra cứu từ điển cẩn thận, tránh viết sai ngữ pháp hay lỗi chính tả.
Đây chỉ là đôi dòng tâm sự và ý kiến cá nhân nếu không đúng ý anh chị em thì xin hãy bỏ qua. Chúc anh chị em có thật nhiều khoảnh khắc đẹp và có lời tựa tên hay.
Share this:
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…
Phân Tích Tác Phẩm Ông Già Và Biển Cả
Phân tích tác phẩm ông già và biển cả – Bài làm 1
Ơ-nít Hê-minh-uê (1899 – 1961) sỉnh tại bang l-li-noi nước Mĩ, trong một gia đình trí thức. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất ở chiến trường l-ta-li-a với tư cách phóng viên mặt trận. Sau đó, ông sang Pháp vừa làm báo vừa bắt đầu sáng tác.
Hê-minh-uê là một trong những nhà văn vĩ đại nhất nước Mĩ thế kỉ XX. ông là người khai sinh ra nguyên lí sáng tác: coi tác phẩm nghệ thuật như một tảng băng trôi, người đọc tự khám phá phần chìm để thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực của tác phẩm, ông vinh dự được nhận Giải Pu-lit-dơ (1953) – giải thưởng văn chương cao quý nhất của Hoa Kì và Giải thưởng Nô-ben về văn học (1954). Hê-minh-uê đã để lại một khối lượng tác phẩm đổ sộ gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, hồi kí, ghi chép… Năm 1952, sau gần 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê cho ra đời tác phẩm Ông già và biển cả. Đây là cuốn tiểu thuyết tuy chỉ có tầm cỡ của một truyện vừa nhưng lại là tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hê-minh-uê bởi nó đã chứa dựng thông điệp quan trọng được coi là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn: Con người được sinh ra không phải để dành cho thất bại. Con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại.
Bối cảnh của truyện là ngôi làng chài yên ả gần bến cảng La-ha-ba-na. Nhân vật chính là ông lão ngư phủ Xan-ti-a-gô với mơ ước cháy bỏng là sẽ đánh bắt được một con cá lớn nhất trong đời. Một mình trên con thuyền nhỏ bé ra khơi, ông lão quyết lập chiến công. Trải qua nhiều ngày lênh đênh trên biển cả đầy vất vả, hiểm nguy, cuối cùng ông lão đã đánh bắt dược một con cá kiếm khổng lồ, buộc nó cặp mạn thuyền rồi dong vào bờ. Nhưng con cá kiếm đã bị đàn cá mập tấn công, ông lão dùng hết sức lực để chống chọi với lũ cá mập hung dữ. Khi đuổi được lũ cá mập ra xa thì con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương, ông lão buồn bã trở về túp lều của mình, nhưng trong lòng ông vẫn chưa tắt những ước mơ tốt đẹp.
Thông qua hình ảnh ông lão Xan-ti-a-gô đơn độc, quật cường đã chiến thắng con cá kiếm khổng lồ bằng ý chí phi thường và kĩ năng nghề nghiệp điêu luyện, Hê-minh-uê ca ngợi phẩm chất đáng quý của con người lao động.
Ông già và biển cả được đánh giá là bài ca ca ngợi con người. Đây là tác phẩm hay nhất, nhiều ý nghĩa nhất, vì thế nôn đọc bất cứ đoạn nào chúng ta cũng thấy sự thể hiện sinh động của nguyên lí tảng băng trôi trong sảng tác của Hô-minh-uê. Bố cục đoạn trích gồm hai phần:
Phần 1: Từ đầu đến… Con cá trắng bạc, thẳng đơ và bồng bềnh theo sóng: Miêu tả cuộc chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô. Phần 2: Còn lại: Miêu tả hành trình trở về của ông lão.
Đoạn trích kể về việc sau khi con cá kiếm mắc câu, ông lão Xan-ti-a-gô đã vật lộn với nó gần hai ngày đêm, sức lực cạn kiệt nhưng ông lão vẫn quyết tâm giết bằng được nó. Cuộc chiến để thu hồi thành quả lao động của ông lão Xan-ti-a-gô quả là vất vả và khó nhọc.
Nhà văn miêu tả con cá kiếm như một “nhân vật đặc biệt” với những nét khác thường. Ở đầu đoạn trích, con cá chưa xuất hiện ngay mà chỉ tạo ấn tượng bằng những vòng lượn tròn rất lớn. Nhà văn có dụng ý để ông lão cảm nhận gián tiếp về con cá qua những vòng lượn của nó. Từ lúc mắc câu, con cá kiếm không nổi lên mặt nước mà cứ kéo sợi dây câu bơi ra xa. Sau đêm thứ hai, khi đã kéo chiếc thuyền của ông lão đi khắp các hướng thì con cá bắt đầu lượn vòng. Những vòng lượn gợi lên từng thời điểm và mức độ căng thẳng của cuộc đấu sức giữa ông lão và con cá kiếm. Lần thứ nhất, con cá còn khỏe nên nó lượn một vòng tròn rất lớn. Hai giờ sau, các vòng tròn hẹp hơn. Đến lần thứ hai, sau khi quật mạnh sợi dây vài lần, con cá không quật dây đáy nữa mà bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm, tức là nó đã dần dần đuối sức. Hai lần đầu, ông lão phán đoán độ lớn của con cá nhờ cảm giác từ đôi tay đang níu giữ sợi dây. Những vòng lượn tiếp theo, con cá đã nhô mình lên khỏi mặt nước và ông lão lần đầu tiên thấy con cá.
Xảy ra đồng thời với những vòng lượn để thoát khỏi lưỡi câu của con cá kiếm là hành động dùng hết sức níu sợi dây để kéo con cá vào gần thuyền của ông lão. Cứ mỗi lần con cá lượn vòng là mỗi lần ông lão phải gắng sức, đến nỗi cảm thấy choáng váng. Sau mỗi lần như thế, ông lão lại tự nhủ: Hãy cố lên chút nữa, hãy giữ đầu óc tỉnh táo! Những chi tiết này cứ lặp đi lặp tại cho đến khi ông lão phóng ngọn lao vào trúng tim con cá.
Kiểu kết cấu trên nhằm đặc tả sức mạnh và sự khôn ngoan của con cá kiếm và cho thấy mức độ gay go, quyết liệt của cuộc chiến giữa ông lão Xan-ti-a-gô với con cá kiếm. Vòng lượn của con cá càng nhiều và thay đổi liên tục chứng tỏ nó khôn ngoan, dũng cảm, kiên cường chống đỡ không kém gì đối thủ. Con cá cố gắng thoát khỏi sự níu kéo quyết liệt của lão ngư phủ. Cả hai bên đều đã kiệt sức nhưng đều cố giành phần thắng về mình. Sự lặp lại những vòng lượn của con cá kiếm còn gợi lên hình ảnh một ngư phủ từng trải và lành nghề. Chỉ bằng mắt nhìn và cảm giác đau đớn nơi bàn tay, ông lão đã ước lượng được độ lớn của con cá qua những vòng lượn từ rộng tới hẹp, từ xa tới gần. Xan-ti-a-gô đã khéo léo điểu khiển sợi dây vì nếu để chùng dây thì không thể kéo con cá lại gần, còn nếu căng dây quá thì con cá sẽ nhảy vọt lên, có thể làm tuột lưỡi câu. Lúc đầu, ông lão thu ngắn dây để con cá không thể quay vòng: Lão lách vai và đầu ra khỏi sợi dây và bắt đầu liên tục kéo nhẹ nhàng.
Diễn biến cuộc chinh phục con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô được tác giả miêu tả như một trận chiến đấu thực sự. Suốt hai giờ đồng hổ, ông lão mệt nhoài, người đẫm mồ hôi vì cứ phải ra sức kéo sợi dây để cho con cá khỏi quay vòng. Sức lực của ông lão suy kiệt nhanh chóng, ông lão thấy hoa mắt…, mồ hôi xát muối vào mắt lão và xát muối lên vết cắt phía trên mắt và trán. Ông lão tự nhủ: Chúa sẽ giúp ta chịu đựng. Ta sẽ đọc một trăm lần kinh Lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ. Nhưng lúc này thì ta chưa thể đọc.
Đến vòng lượn thứ ba, khi đã thấm mệt, con cá không quật dây nữa và bắt đầu lại lượn vòng chầm chậm… Rồi ông lão nhìn thấy: Cài đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm. Nó lại lặn xuống và khi con cá hãy còn mấp mé mặt nước, ông lão có thể nhìn thấy thân hình đồ sộ và những sọc tỉa trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng.
Ông lão phân tích tình hình, tìm mọi cách kéo con cá lại gần thuyền và tự động viên: Hãy bình, tĩnh và giữ sức, lão già ạ. Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Hãy tỉnh táo vì tao, đầu à… Nhưng đó cũng là lúc sức cùng lực kiệt: Miệng lão khô khốc không thể nói nổi, hoặc nếu có thì cũng bằng giọng thì thảo, yếu ớt.
Khi ông lão chuẩn bị phóng mũi lao vào con cá, như trêu ngươi, nó rướn thẳng mình, lại chầm chậm bơi xa, cái đuôi đồ sộ lắc lư trong không trung. Thời điểm quyết định đã tới: ông lão nhấc cao ngọn lao hết mức, vận hết sức bình sinh… phóng xuống sườn con cá ngay sau cái vây ngực đồ sộ, vươn cao trong không trung ngang ngực ông lão… Con cá phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền. Thoáng chốc nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền.
Cách kể chuyện và miêu tả hấp dẫn của tác giả giúp người đọc hình dung ra diễn biến trận đánh càng về sau càng gay go, căng thẳng. Sức lực của ông lão cứ yếu dần đi theo từng vòng lượn của con cá kiếm.
Trong tình huống đơn độc và gay cấn, ông lão biết rằng tốt hơn cả là tự cứu mình. Vì thế nên ông lão củng cố tinh thần và sức chịu đựng để tồn tại và chiến thắng, luôn luôn tự nhủ: Hãy giữ cho đầu óc tĩnh táo và biết cách chịu đựng như một con người.
Ý chí, nghị lực của ông lão Xan-ti-a-gô còn thể hiện ở quyết tâm bắt bằng được con cá. Sức lực cạn kiệt nhưng lão vẫn cố gượng dậy để tiếp tục chiến đấu: Lão cảm thấy hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, lão cảm thấy choáng váng, đau đớn…
Ông lão phán đoán, phân tích tình thế rồi đưa ra giải pháp hành động hợp lí, chính xác, đồng thời kiên trì chịu đựng và tin rằng mình sẽ giết được con cá: Chỉ hai ba vòng nữa thôi thì ta sẽ có nó… Tao sẽ tóm mày ở đường lượn… Ta đã di chuyển được nó.
Sức mạnh mà Tạo hóa ban tặng cho con cá kiếm là để nó chiến đấu giành lại sự sống từ bàn tay con người. Sức lực của ông lão Xan-ti-a-gô là sức lực của con người. Ý chí, trí tuệ và kinh nghiệm đã giúp lão khắc phục hoàn cảnh, tuổi tác để cuối cùng giành được chiến thắng, ông lão thú vị rút ra bài học: Ta chỉ thạo hơn cu cậu ở mỗi cái trò mánh lới.
Thái độ đối với con cá kiếm phản ánh diễn biến phức tạp trong tâm trạng ông lão lúc này. Ông lão vừa yêu quý, khâm phục con cá vừa quyết tâm phải hạ gục nó. Lão thân mật gọi nó là người anh em và chân thành bày tỏ: Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ.
Nguyên do là vì Xan-ti-a-gô suốt đời làm nghề đánh cá mà đã lâu không bắt được con cá nào, có nghĩa là ông lão không còn tồn tại với tư cách của một ngư phủ. Ông lão đặt ra cho mình nhiệm vụ là bằng mọi giá phải bắt được con cá kiếm. Trong cuộc săn đuổi đó, con cá kiếm đã bộc lộ phẩm chất cao quý như một con người chân chính. Nó không lồng lên làm đắm thuyền, không lặn sâu xuống bứt đứt dây câu mà chấp nhận cuộc đấu tay đôi một cách sòng phẳng. Nó mải miết kéo chiếc thuyền của ông lão ra khơi xa. Những lời trò chuyện với con cá kiếm và độc thoại nội tâm cho thấy ông lão có cảm nhận rất khác lạ về con cá mà mình đang săn đuổi. Con cá kiếm khổng lồ vừa là đối tượng chinh phục vừa là bằng hữu của ông lão. Điều đó cho thấy hành trình tìm kiếm ước mơ của con người là vô cùng vất vả và hành trình thực hiện ước mơ lại càng gian nan hơn, đòi hỏi con người phải tập trung trí lực cao độ.
Hình ảnh con cá kiếm ở phần nổi là thành quả của nhiều ngày lao động vất vả trên biển của ông lão Xan-ti-a-gô. Ở phần chìm, nó tượng trưng cho ước mơ, khát vọng lớn lao của con người, là vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên. Trong quan hệ với con người, thiên nhiên vừa là bạn bè vừa là đối thủ.
Hình ảnh con cá kiếm khổng lồ trong tác phẩm được tác giả miêu tả từ xa tới gần, từ bộ phận tới toàn thể thông qua cảm nhận từ gián tiếp đến trực tiếp của ông lão Xan-ti-a-gô. Lúc đầu, ông lão chỉ thấy cái bóng đen dài vượt qua dưới con thuyền và cảm nhận rằng nó dài đến mức không thể tin nổi. Sau đó, ông lão nhìn thấy cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm. Sau vòng lượn thứ ba, ông lão đã ngạc nhiên đến bàng hoàng khi nhìn thấy tận mắt hình dáng tuyệt đẹp và độ lớn chưa từng có của con cá kiếm.
Con cá kiếm có một vẻ đẹp kiêu hùng, kì vĩ. Lúc bị ngọn lao của ông lão phóng trúng tim, con cá kiếm vẫn đẹp một vẻ đẹp tuyệt vời: Khi ấy con cá mang cái chết trong mình, sực tỉnh, phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung phía trên ông lão và chiếc thuyền.
Sau khi ông lão đã buộc nó cặp mạn thuyền để đưa vào bờ thì: Da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tía nhạt như đuôi nó. Những đường sọc ấy lớn hơn cả bàn tay người xòe rộng còn mắt nó trông dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như vị thánh trong đám rước. Vẻ đẹp sống động không còn nữa mà thay vào đó là sắc màu nhợt nhạt của một sinh vật đã bị tước đoạt sự sống.
Sự khác biệt đó hàm chứa một ý nghĩa sâu xa: Con cá kiếm không chỉ là một con cá do ông lão săn được mà là hình ảnh của ước mơ, lí tưởng mỗi con người theo đuổi trong suốt cuộc đời. Sự khác biệt đó còn gợi cho người đọc suy nghĩ: Phải chăng đó là khoảng cách xa vời giữa ước mơ và hiện thực. Khi ước mơ đã trong tầm tay hoặc đã trở thành hiện thực thì nó không còn giữ được vẻ đẹp đẽ, huy hoàng như trước nữa.
Hình ảnh con cá kiếm còn tượng trưng cho khát vọng nghệ thuật và quá trình sáng tạo của nhà văn. Sự xuất hiện lần đầu của con cá kiếm ám chỉ cơ hội cho nhà văn khám phá cuộc sống. Hành trình theo đuổi con cá của ông lão Xan-ti-a-gô cũng là hành trình lao động nghệ thuật của nhà văn. Con cá kiếm vừa xuất hiện cũng giống như tác phẩm mới hình thành ở ý đồ sáng tác, nhà văn chỉ mới cảm nhận được ý nghĩa tiềm ẩn của nó. Đến khi tác phẩm đã hoàn thành thì nó phô ra vẻ đẹp để mọi người có thể nhìn thấy, cũng giống như con cá kiếm lúc phóng vút lên khỏi mặt nước. Đến khi đã có đời sống riêng thì chính tác phẩm đưa tác giả đến bến bờ vinh quang. Con cá kiếm là đối tượng để ông lão chinh phục và chiến thắng, là người anh em để lão so tài và thử sức, là mục đích, lí tưởng mà ông lão hướng đến. Như vậy, khuất phục được đối thủ vừa thể hiện trí tuệ và lòng dũng cảm, niềm kiêu hãnh của con người và là cơ sở để giúp con người đánh giá khả năng chinh phục thiên nhiên.
Đoạn trích trên tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Hê-minh-uê: ngôn ngữ trong sáng, giản dị, lối kể chuyện thông qua việc sử dụng đối thoại, độc thoại nội tâm của nhân vật cùng với những hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng. Sự lặp đi, lặp lại những chi tiết theo kiểu kết cấu vòng tròn xoắn trôn ốc giúp người đọc có thể bóc dần từng lớp vỏ ngôn ngữ để khám phá ra ý nghĩa và giá trị thực sự của tác phẩm. Đoạn trích còn cho thấy khả năng quan sát nhạy bén và trí tưởng tượng phong phú của Hê-minh-uê – nhà văn bậc thầy về tiểu thuyết.
Tác phẩm Ông già và biển cả cũng thể hiện tình cảm yêu mến, khâm phục của nhà văn đối với những con người lao động nghèo khổ. Tác giả muốn chuyển đến người đọc một thông điệp quan trọng: Trong cuộc đấu tranh vật lộn mưu sinh hay để lập chiến công, con người có thể chấp nhận cái chết, nhưng không bao giờ chấp nhận lùi bước. Câu chuyện về ông lão đánh cá già nua, đơn độc nhưng vô cùng dũng cảm đã cổ vũ biết bao người trên thế giới dám dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh vì hạnh phúc của nhân loại.
Phân tích tác phẩm ông già và biển cả – Bài làm 2
Những câu chuyện viết về công cuộc chinh phục thiên nhiên của con người đã trở thành môtj trong những đề tài được đánh giá cao, đó là tâm huyết cho sự tìm tòi, vận dụng trí sáng tạo, tính viễn tưởng trong cách nhìn mới về con người tự do. Hemingway một nhà văn gốc Mỹ tầm cỡ của thế kỉ 20, cũng mở rộng tâm hồn, là nhà văn của cái mới, ông lựa chọn đề tài này để khai thác nhiều hơn, ở người không chỉ nổi bật về khả năng của mình trong cách viết truyện, ông còn bảo vệ được quan điểm của mình về nguyên lí “tảng băng trôi” mang đầy triết lí nhân sinh được thể hiện tất cả qua tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng “Ông già và biển cả”.
Đoạn trích nằm trong phần gần cuối của tác phẩm Ông già và biển cả, kể lại về quá trình ông lão hiên ngang giữa biển khơi, công cuộc đánh vật chinh phục con cá khổng lồ đã thành công mĩ mãn.Có thể chia đoạn trích này làm hai phần rõ rệt:Phần một từ đầu đến nước bắn tung tóe lên cả ông lão và con thuyền kể về quá trình chinh phục con cá kiếm khổng lồ,và vẻ đẹp tuyệt vời của con vật. Phần hai: đoạn còn lại, kể về Ông lão Xan-ti-a-gô đưa con cá trở về sau nhiều ngày trời vật vã trên biển.
Mở đầu một cuộc đi săn, bao giờ cũng là sự thăm dò cẩn thận. Trước bối cảnh thiên nhiên rộng lớn, ông già đánh cá mang trong mình nhiều kinh nghiệm về công việc đi biển, vững chèo con thuyền ra giữa biển khơi, để tìm nguồn cá, nhưng ông khá thất vọng vì chưa được con nào. Ông bất chợt lọt vào trong tầm mắt ông lúc này là hình ảnh một con cá kiếm, ông như người bắt được vàng, trong thâm tâm luôn muốn bắt được con cá này, như chính ước mơ ấp ủ bao đêm của ông làm được một cái gi to lớn. Đên với phần đầu ta như bước vào một khung cảnh đầy hùng vĩ giữa mây nước, sau khi đã nhắm được mục tiêu ông lão không vội vàng mà chậm rãi chăm chú quan sát đối phương. Sự quan sát cặn kẽ đến mức như ông lão hiểu được từng vòng lượn của con cá kiếm dưới mặt nước kia, vòng lượn gần đến lượn xa ông đều cảm nhận được. Vòng tròn lớn, sợi dây câu con cá ấy nặng trĩu và xiết tay ông làm ông nhiều lúc muốn buông xuôi. Ở từng vòng lượn cứ bình tĩnh và chậm rãi, cứ giữ sức, rồi lại vùng vẫy ra xa, đầy hung hăng,thể hiện được sự mãnh liệt trước vấn đề sinh mệnh theo bản năng sinh tồn. Nó luôn nỗ lực không rời bỏ để thoát khỏi sự bắt ép của ông lão, không chịu đầu hàng ông. Sự hùng vĩ, to lớn, vẻ đẹp của con cacòn được ôngmiêu tả tỉ mỉ “dây là con cá kh ổng lồ, đuôi xanh thẫm, thân hình xòe rộng, một con cá khổng lồ mà cả đời ông mơ ước”,” cái đuôi lớn hơn cả cái lưới hái lớn”, cả những vạch dọc người của nó. Sự mạnh mẽ của con vật ấy sống giữa tự nhiên, đầy tính oai phong. Con cá ở đây là biểu hiện chân thực đầy sống động của thiên nhiên hùng vĩ trước cái nhìn của ông- một con người nhỏ bé.
Nhưng liệu ông có để mặc cho con cá ấy thắng mình, hay ông cũng bạo gan, dùng sự kiên trì, dùng trí thông minh để thu phục con cá, dùng sức lực của một người đi biển lâu năm kìm hãm, đấu vật sức lực của con cá. Ông đứng trên bờ, đăm đăm quan sát thì câu chuyện đã không có kịch tính, tình huống đáng nói. Một hình ảnh đẹp được tác giả tập trung khai thác, một con người mạnh mẽ ở trên chiếc thuyền kia, một con cá to lớn ở dưới mặt nước, được nối liên hệ với nhau bằng chiếc móc câu. Cuộc chinh phục tự nhiên cũng được bắt đầu ngay sau mối liên hệ ấy, Sau khi con cá mắc câu nó kéo phăng con thuyền đi ra xa đại dương ba ngày hai đềm.Ông đã có những lúc độc thọi với con cá kiếm “đừng nhảy cá”, “cá ơi dẫu sao mày cũng sẽ chết. Mày muốn tao cùng chết nữa à”, “mày đừng giết tao cá à”. Khi nó mệt thì mới lượn vòng dưỡng sức, với ngụ ý luôn không ngơi nghỉ ý nghĩ tìm cách thoát khỏi vòng bủa vây của ông lão, Sức dẻo dai của con cá cũng đồng nghĩa với con người trên thuyền, phải chăng con người sắp thua con vật to lớn kia, vì đã có lúc nó làm ông “quá mệt mỏi, “hoa mắt”, chóng mặt, choáng vấng, xây xẩm mặt mày”. Ông cũng phải dùng kế, để làm gần với con cá, vì cả hai lúc này đều đã thấm mệt. “ông lão cứ thu dây, giữ yên sợi dây rồi lại buông.
Ông cũng nuôi trong mình suy nghĩ thông minh, không hề có ý định bỏ cuộc, chỉ là đợi cho con cá thấm mệt rồi mới bắt đầu hành động quyêt liệt hơn. Luôn dùng những suy nghĩ, lối nói độc thoại nội tâm để tự căn dặn bản thân không cho phép mình được bỏ cuộc Khi thời cơ cảm tưởng đã đến lúc, ông đi áp sát con cá, nghĩ rằng chỉ còn cách áp dụng hết sức của mình có được để đâm nó mới mong chiến thắng nó,dồn hết sức, mọi đau đớn, lòng kiêu hãnh của mình vào cú đánh đòn quyết định, nhấc ngọn laophong xuống sườn con cá”, con cá chủ quan, khi nhìn nhận cái nguy hiểm gần kề thì đã muộn, mũi dao đã phập vào mình, “mang cái mệt trong lòng, nó tung mình lên cao trên mặt nước phô bày hết tầm vóc khổng lồ, sức mạnh và vẻ đẹp của nó”. Cuối cùng ông đã chinh phục được nó trước khi nó tìm cách thoát thân được, nhưng cũng không nguôi tiếc nuối khi phải giết nó. Ta có thể thấy được tâm lý, tầm vóc trong suy nghĩ lớn lao của con người, sánh vai với cả vũ trụ, với đại dương, ý chí nỗ lực của cả hai đều được tác giả công nhận, nhưng in đậm lên trên sẽ vẫn dễ hiểu đó là hình ảnh ông lão người lao động bình dị, mà có nghị lực phi thường, ca ngợi về ông cũng chính là sự ca ngợi về chính thế hệ con người trước thiên nhiên bất tận.
Hình ảnh ông lão vật vã đưa con cá thành quả trở về sau những ngày dài,chính là biểu hiện cho lý tưởng sống cao cả, không chịu bỏ cuộc, tiếp tục kiên trì mà ông đã lập được kỉ lục, nhìn lại những những phút giây trải qua chiến đấu không hề đơn giản chút nào với con cá, dùng hết sức lực ông có, thì ông mệt nhoài, nhiều lúc thân xác đã đói meo, lưng đau,.. nhưng với bản lĩnh, với kinh nghiệm của ông đã giúp ông vượt qua hết thử thachs này đến thửu thách khác mà con cá tạo ra, ông luôn tự dặn lòng, động viên mình, khích lệ cho tinh thần chiến đấu không ngừng nghỉ của bản thân.
Có thể thấy trog câu truyện là thích hợp, phù hợp, gợi nhắc đến mối liên hệ với nguyên lí tuyệt vời của nhà văn Hemingway “tàng băng trôi” ở đây chính con cá là bề nổi của vấn đề là cuộc đi sặn ngang tài ngang sức lần này của ông lão.. Để ta thấy được bề chìm rằng trên con đường đi tới thành công sẽ đầy rẫy những khó khăn, không dễ dàng, nhưng nếu có niềm tin bất diệt nơi bản thân, kiên trì theo đuổi đến cùng chắc chắn sẽ thành công, Có thể thấy được trong câu chuyện có những lúc cá và người hiểu nhau, cùng nhau thả mình, cùng nhau chia sẻ những vất vả qua câu nói “tao chưa từng thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ!”, mà còn là đối thủ ngang tài ngang sức. Hay suy rộng ra có lẽ nó là hình ảnh thiên nhiên luôn gần gũi với con người, nó là nơi ươm mầm giúp cho con người nuôi trong mình những khát khao chinh phục, như những khó khăn thử thách mà con người phải vượt qua, để tiến bộ, để có được cái thành quả,
Đoạn trích chính là tiêu biểu cho một phong cách viết văn của nhà văn Hemingway, bằng cách sử dụng hai hình tượng con cá kiếm, và ông lão mang biểu tượng sâu sắc, mang nhiều tầng nghĩa của tác phẩm, đặt con người cô độc vào trong chính hành trình của mình, tự chiến đấu, tự chiến thắng bản thân mình vì một khát vọng lớn lao, có thể minh chứng cho một chân lý “con người sẽ luôn sống hết mình với những ước mơ của mình, phải luôn có niềm tin, theo đuổi mục tiêu đến cùng chắc chắn sẽ thành công”, và ” con người có thể bị hủy diệt, nhưng không thể bị đánh bại”.
Phân tích tác phẩm ông già và biển cả – Bài làm 3
“Con người” là một đề tài rất quen thuộc trong văn học. Dù ở bất kì thể loại nào cũng có những tác phẩm nổi tiếng về đề tài này. Trong chương trình học của môn ngữ văn lớp 12 có một tác phẩm như thế. Đó là một tác phẩm để đời của một nhà văn người Mĩ nổi tiếng Hemingway- “Ông già và biển cả” (The old man and the sea).
“Ông già và biển cả” là một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm đã đạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1953 và góp phần quan trọng trong giải thưởng Nobel của tác giả năm 1954.
Trước khi tiếp cận với đoạn trích, trước hết ta sẽ tìm hiểu đôi nét về tác giả vĩ đại của tiểu thuyết nổi tiếng này. Hemingway là một trong những nhà văn lớn nhất nước Mĩ thế kỷ 20. Ông là người để lại dấu ấn sâu sắc trong năn xuôi hiện đại phương tây, đổi mới phong cách viết truyện, tiểu thuyết của nhiều nhà văn trên thế giới. Ông là người đề xướng ra nguyên lý “tảng băng trôi”. Và tác phẩm này chính là cuốn tiểu thuyết được nhà văn sử dụng triệt để nguyên lý ấy. Tác giả mô tả một phần nổi chính là sự vĩ đại, to lớn, sức mạnh của con cá, sự chênh lệch giữa sức lực của thiên nhiên với con người để từ đó ca ngợi sức lao động, niềm khát khao chinh phục thiên nhiên của con người.
Cuốn tiểu thuyết có nhân vật trung tâm là ông lão đánh cá người Cuba- Santiago, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển ông đã gặp được con cá kiếm khổng lồ. Ông đã cố gắng chiến đấu, chinh phục con cá kiếm mà ông cho rằng là mơ ước trong đời. Cuối cùng sau 3 ngày vật lộn ông cũng đâm chết được con cá, nhưng thật không may lũ cá mập lại đánh hơi thấy và tramh nhau xẻ thịt con cá kiếm, ông lại đem hết sức chống trọi với lũ cá mập.mặc dù đã đuổi được chúng đi nhưng cuối cùng con cá kiếm chỉ còn là bộ xương khổng lồ.
Đoạn trích trong chương trình nằm ở gần cuối của truyện kể về cuộc chinh phục con cá kiếm của ông lão Santiago.
Phần đầu của đoạn trích là cách thức mà ông lão cảm nhận và quan sát đối phương. Sự cảm nhận của ông lão được thể hiện qua những vòng lượn của con cá kiếm. Ông lão cảm nhận con cá một cách gián tiếp. Vòng lượn gần rồi đến vòng lượn xa. Ở vòng tròn lớn gần áp lực của sợi dây chùng lại, chững lại, sự vùng vẫy của con cá khiến ông cảm thấy đôi tay bắt đầu đau. Ở xòng tròn xa, con cá lượn gần rồi lại quật sức ra xa. Những vòng lượn của con cá được mô tả nhiều lần thể hiện những cố gắng cuối cùng nhưng hết sức mãnh liệt của con cá. Con cá cố gắng tìm mọi cách thoát khỏi sự bủa vây của ông lão. Qua sự quan sát của mình ở vòng lượn thứ ba, ông lão thấy đay là một con cá khổng lồ cái đuôi xanh thẫm, thân hình xòe rộng, một con cá khổng lồ mà cả đời mơ ước. Bằng sự quan sát cảm nhận của chính bản thân mình, ông lão thấy được vẻ đẹp dũng mãnh, oai phong của con cá. Con cá không chỉ mang vẻ đẹp của riêng mình mà còn là sự thể hiện của thiên nhiên hùng vĩ.
Cảm nhận được đối thủ của mình, ông lão bắt đầu đi vào trận chiến. Khi con cá bị mắc câu, nó kéo phăng con thuyền ra xa đại dương ba ngày hai đêm. Khi mệt con cá mới lượn vòng dừng lại. Con cá tìm mọi cách để thoát khỏi vòng vây. Nó cứ lượn gần rồi lượn xa để tìm cách thoát thân. Khi bị phóng lao, con cá vút lên phô hết tầm vóc và vẻ đẹp của mình.Con cá kiếm không chỉ mang vẻ đẹp về ngoại hình mà còn mang vẻ đẹp kiêu hùng bất khuất. Trong suốt trận đấu, ông lão luôn ở trong tình trạng sức khỏe quá mệt mỏi” hoa mắt”, “chóng mặt”, “choáng váng”, “xây xẩm mặt mày”. Tiếp cận con cá, ông lão cứ thu dây, giữ yên sợi dây rồi lại buông. Mục đích của ông lão là muốn để con cá thấm mệt rồi sẽ tấn công. Ông lão để con cá cứ bơi đi xa, chờ thời cơ để áp sát con cá. Khi đã áp sát con mồi, ông lão dồn hết sức lực, gắng hết sức bình sinh để đâm con cá. Suốt cả khoảng thời gian chờ đợi, ông luôn độc thoại nội tâm để nhắc nhở, tự dặn bản thân, động viên bản thân mình. Lúc này con cá mới sực bừng tỉnh, nhận ra cái chết gần kề mới vùng lên tìm cách thoát thân nhưng cũng đã quá muộn. Ông lão đã chinh phục được con cá kiếm khổng lồ.
Với nguyên lý “tảng băng trôi” câu truyện của Hemingway không dừng lại ở đó. Mối quan hệ của ông lão và con cá kiếm không chỉ đơn thuần là giữa con mồi và người đi săn. Ông lão không chỉ coi con cá kiếm là đối tượng để chinh phục mà còn là người bạn, người “anh em”. Ông lão coi cá là bạn, Mối quan hệ giữa ông lão và con cá hết sức phức tạp, vừa là mối quan hệ giữa người đi câu và con cá, vừa là con người với thiên nhiên, vừa là hai đói thủ ngang sức ngang tài, cũng vừa là hai người bạn cảm thông chia sẻ. Có được điều đó là ý nghĩa biểu tượng của cả hai nhân vật ông lão _con cá. Đối với thiên nhiên, con cá tượng trưng cho vẻ đẹp kì vĩ, đại diện cho sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng đối với cuộc sống, nó là những khó khăn thử thách của cuộc đời, là ước mơ khát vọng, là thành quả lao động của con người. Đối với người nghệ sĩ, con cá tượng trưng cho ước mơ sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật hoàn mĩ. Biển cả là môi trường rộng lớn để người nghệ sĩ sáng tác. Mặt khác, ông lão là người lao động kiên cường bình dị, là người nghệ sĩ luôn theo đuổi cái đẹp với khát vọng sáng tác.
Qua đoạn trích ở phần cuối của cuốn tiểu thuyết, Hemingway đã thể hiện tầm vóc lớn lao của con người, sáng ngang với đại dương bao la, mênh mông vô cùng vô tận; là ý chí nghị lực của con người, là một bản anh hùng ca về con người. Từ đây, tác giả thể hiện niểm tin bất diệt vào con người,con người chỉ bị hủy diệt chứ không bao giờ bị thất bại.
Bằng cách viết ngắn gọn, hàm xúc, tạo mạch ngầm cho văn bản, xây dựng thành công hình ảnh biểu trưng, mang ý nghĩa biểu tượng với nhiều tầng nghĩa, ‘Ông già và biển cả” đã để lại dư âm khó phai trong lòng đọc giả.
Cảm ơn các bạn các bạn vừa đọc xong top những bài làm văn Phân tích tác phẩm ông già và biển cả hay nhất. Chúc các viết cho mình một bài văn Phân tích tác phẩm ông già và biển cả thật hay và đạt được kết quả cao.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Đặt Tên Tác Phẩm trên website Welovelevis.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!