Top 11 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Tên Thiên Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Welovelevis.com

Ý Nghĩa Tên Thiên An

Ý nghĩa tên Thiên An là gì? Tốt hay xấu

Thiên An – một các tên nhẹ nhàng, an lành, yên bình như đúng tên gọi. Tên gọi không chỉ dùng để xưng hô trong giao tiếp mà nó còn đem lại sự may mắn, tài lộc trong cuộc sống, sự nghiệp.

Theo nghĩa Hán Việt, từ “Thiên” trong Thiên An có nghĩa nét đẹp như thiên thần, đáng yêu, dễ thương. Hiểu theo khía cạnh khác, “Thiên” có nghĩa là bao la rộng lớn, những điều vĩ đại, tầm cao.

Từ “An” trong Thiên An có nghĩa là an lành, yên bình và nhẹ nhàng. Hiểu theo nghĩa khác:

– An có nghĩa là YÊN ỔN. Ngụ ý là cuộc sống an lành, bình yên và ổn định. Tâm hồn thoải mái, vui vẻ, nhẹ nhàng, tươi tắn. Cuộc sống khá bình an, êm đềm như dòng nước chảy. Sự nghiệp tươi sáng, tốt lành, gặt hái nhiều thành công, may mắn.

– An có nghĩa là LƯƠNG THIỆN. Ngụ ý là tấm lòng lương thiện, thương người, tâm hôn hướng thiện, luôn đứng lên chống lại kẻ xấu. Sống và làm việc khá quy tắc, rõ ràng và minh bạch. Đúng chuẩn mực xã hội.

– An có nghĩa là SẮP ĐẶT SẴN. Ngụ ý là mọi việc trong cuộc sống luôn được sắp đặt sẵn. Luôn có kế hoạch và mục tiêu rõ ràng. Luôn gặt hái nhiều thành công trong sự nghiệp lẫn tình cảm.

Khám phá tương lai tên Thiên An

Người tên Thiên An có tính cách khá ôn hòa, vui vẻ và hòa nhập với cộng đồng. Trong hành động lẫn lời nói của Thiên An khá trung thực và thật thà, ngay thẳng. Cũng nhờ vào tích cách này mà Thiên An luôn được mọi người xunh quanh yêu mến và trân trọng.

Trong cuộc sống, Thiên An luôn thích khám phá nhiều điều mới lạ. Thích giao lưu và tìm tòi cái mới, luôn có những suy nghĩ sáng tạo. Tâm hồn của Thiên An khá trong sáng, tấm lòng cao thượng. Họ sẵn sàng tha thứ mỗi lỗi lầm, thay vì tìm cách trả thù.

Thiên An vốn sinh ra khá thông minh, luôn có nghĩ suy nghĩ vĩ đại, tầm cao. Bởi thế con đường sự nghiệp của Thiên An khá thành công. Cộng với sự vui vẻ, hoạt bát của bản thân nên chuyện làm ăn kinh doanh ngày càng thuận lợi, hanh thông.

Tinh thần làm việc của Thiên An khá rõ ràng và minh bạch, công chính liêm minh. Luôn có những kế hoạch và mục tiêu rõ ràng, từng bước thực hiện mục tiêu đặt ra. Luôn giữ cho mình tinh thần ổn định, bình tĩnh trong mọi trường hợp. Giải quyết vấn đề theo cách tích cực nhất.

Thiên An là người sống khá tình cảm và giàu cảm xúc. Trong các mối quan hệ như bạn bè, đồng nghiệp, người thân. Thiên An luôn đứng ra bênh vực và bảo vệ người khác. Luôn giúp đỡ để mọi người cùng vượt qua khó khăn, cùng chia sẻ nỗi vui buồn trong cuộc sống.

Trong tình cảm, Thiên An là người khác chung thủy, ngọt ngào và lãng mạn. Khi gặp đúng người, đúng thời điểm, Thiên An sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ và che chở cho người đó.

Các tên đệm với tên An hay nhất

– Bảo An: c ó nghĩa là bảo bối, tài sản vô giá, mong muốn cuộc sống bình an, yên tĩnh, vui vẻ và hạnh phúc.

– Bình An: có nghĩa là sự êm đềm, nhẹ nhàng, cuộc sống luôn gặp nhiều điều tốt lành. Không gặp bất kỳ sóng gió hay trắc trở nào trong cuộc sống.

– Cát An: có nghĩa là điều tốt lành, tốt đẹp nhất diễn ra trong cuộc sống. Là người bình an, xinh đẹp và luôn gặp nhiều điều may mắn trong cuộc sống.

– Đăng An: có nghĩa là ngọn đèn soi sáng, tinh anh, mong muốn cuộc sống sau này tốt lành, tươi sáng như ngọn đèn, gặp may mắn và tốt lành.

– Diễm An: có nghĩa là sự long lanh, nét đẹp kiều diễm, e thẹn. Một cái tên nhẹ nhành và êm đềm dành cho các bé gái, mong muốn cuộc sống sau này thật bình an, vui vẻ và hạnh phúc.

– Đức An: có nghĩa là đạo đức, tài đức, phẩm hạnh của con người. Cuộc sống thêm bình an, tốt lành, sống có lý có tình.

– Hoài An: có nghĩa là sự nhớ nhung, ôm ấp nỗi niềm về quá khứ. Mong muốn cuộc sống thật thanh nhàn, bình an, không lo âu phiền muộn.

Ý Nghĩa Hoa Thiên Lý

Hoa thiên lý là cây thân mềm hoa gỗ trồng dưới dạng giàn leo. Hoa thiên lý mọc thành các chùm nhỏ, hoa mọc lên từ khu vực nách lá. Hoa thiên lý gồm 5 cánh có màu xanh lục hoặc màu vàng. Hoa thiên lý có đường kính nhỏ chỉ 1cm nhưng vì mọc thành chùm, chúng tạo thành hình khá lớn.

Thiên lý phát triển mạnh vào mùa xuân hoặc trong điều kiện nhiệt độ từ 20-35 độ C. Khi được trồng dưới điều kiện khí hậu phù hợp, cây sẽ phát triển rất nhanh và nở nhiều hoa. Hoa thiên lý là loại hoa phát triển vươn lên cao và thích nơi có nhiều nắng, nhiều gió.

Ý nghĩa hoa thiên lý gắn liền với câu chuyện tình của cặp vợ chồng yêu thương nhau. Người xưa kể lại rằng có cặp vợ chồng nọ sống rất yêu thương nhau, người chồng có biệt tài thổi sáo rất hay. Tiếng sáo ấy khiến biết bao cây cỏ, chim muông cũng phải mê mẩn. Trong số những con vật yêu thích tiếng sáo của chàng có con rắn mang lòng nhằm chiếm đoạt chàng cho riêng mình.

Cụ già lấy hai miếng vải đen, bịt mắt hai người vợ lại rồi đưa cho hai người chiếc áo có mùi hôi của ba người đàn ông khác nhau. Nếu đó là áo của chồng thì gật đầu. Người vợ thật liền dễ dàng nhận ra chiếc áo có mùi của chồng mình. Tuy nhiên rắn lục có đôi mắt tinh tường, nó có thể nhìn xuyên qua miếng vải đen. Khi người vợ gật đầu, rắn lục cũng gật đầu theo.

Thấy không thể phân giải nhờ cách này, ông cụ liền mang đến 3 bát canh, vị canh nào là vợ chồng thích thì người vợ hãy gật đầu. Vẫn với cách cũ, rắn lục dễ dàng vượt qua bài thi nhờ làm theo người vợ thật.

Ngày sau, cụ lại mời hai người đến tiếp tục phân giải. Hai người đứng ở hai nơi, cách xa nhau nhưng cùng nhìn về phía con đường. Cụ dặn sẽ có 3 người đàn ông đi qua con đường, khi nào người chồng đi qua thì hãy gọi thật to. Cô vợ giải vô cùng lo lắng vì sợ bại lộ, nhưng sau đó cô ta liền nghĩ sẽ phản xạ thật nhanh, nếu người vợ thật gọi cô ta cũng sẽ gọi. Qua 2 người đầu tiên, thấy người vợ thật im lặng, cô nàng bèn chắc chắn người chồng là người cuối cùng. Thấy vậy, cô nàng liền nhanh miệng vẫy gọi người thứ ba rất to, trong khi đó người vợ thật vẫn im lặng.

Sự thật đã được sáng tỏ, cả 3 người qua đường đều không có ai là chàng trai thổi sáo, người vợ giả bại lộ. Người vợ thật nói với cụ ông: “Nếu là chồng cháu, dẫu xa trăm dặm ngàn dặm cháu cũng sẽ nhận ra”.

Kể từ đó hai vợ chồng anh chàng sống hạnh phúc bên nhau. Một ngày, có chú chim bay qua nhà chàng, nhả ra một nhành hoa có màu xanh phớt vàng, mùi thơm thoang thoảng. Chàng trai đặt hoa cạnh cửa sổ, khi có gió thoảng sẽ mang hương thơm bay khắp nhà, đêm đến hương hoa càng quyến rũ lòng người.

Sáng hôm sau nơi cửa sổ mọc lên một dây leo, rất nhiều chùm hoa khác nở ra. Từ đó người ta gọi đấy là hoa thiên lý. Vợ chàng trai có tên Thị Lý, khi thử thách cuối cùng nàng có nói dù có cách xa ngàn dặm, nàng vẫn nhận ra được chồng. Dân gian đã dựa trên câu nói của nàng đặt tên cho một loại cây thân leo, chúng kết thành những chùm hoa nhỏ nhắn với tên gọi Thiên Lý mang ngụ ý là ngàn dặm.

Ý nghĩa hoa thiên lý trong phong thủy

Hoa thiên lý là loại cây leo giàn. Do đó khi làm giàn các gia đình Việt thường lựa chọn làm tại sân vườn hay ban công vừa có công dụng tỏa bóng mát, vừa giúp làm đẹp cảnh quan cho ngôi nhà. Lựa chọn hoa thiên lý giúp không gian thoáng đãng và dịu mát. Hiện nay số lượng người trồng hoa thiên lý cũng giảm dần, hoa thiên lý hiện được bày bán nhiều với công dụng chữa bệnh hoặc dùng để chế biến món ăn.

Ý nghĩa hoa thiên lý vô cùng đa dạng trong đời sống con người. Hiện nay số lượng hoa thiên lý đã giảm bớt nhưng những ứng dụng của chúng luôn được người đời trân trọng.

Ý Nghĩa Của Hoa Thiên Lý

Trong vô số những loài hoa làm nên nét độc đáo của ẩm thực Việt có lẽ duy nhất chỉ có hoa thiên lý là có nhiều chuyện để nói nhất. Là loài hoa nhỏ nhắn, không có gì nổi bật song đằng sau nó là một chuyện tình đẹp, có sức lay động lòng người. Không chỉ có thế, thứ hoa mộc mạc này còn có thể chế biến thành rất nhiều món ăn ngon, hấp dẫn.

Ngày xưa, xưa xưa, có một chàng trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã quyết tâm tu luyện cho thành người để giành chàng làm chồng, mặc dù chàng đã có vợ. Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất trở về, vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ trẻ vừa xinh, vừa hiền của mình ra đón. Chàng vui lắm, đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành người và đã giả dông giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng, dáng đi… Về đến nhà, chàng trai bỗng rụng rời thấy một người vợ thứ hai bước ra… Chàng trai không còn biết ai là vợ thật của mình nữa. Hai người đàn bà trẻ giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ giúp đỡ. Nghe chàng nói rõ ngọn ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà trẻ đến.

– Cụ già lấy vải đen bịt mắt cả hai lại rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba người đàn ông khác nhau và dặn:

– Cứ ngửi đi và cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu! Cô vợ thật được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo. Ông cụ liền cho mang đến ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. ông cụ dặn:

– Thứ canh nào chồng thích ăn thì gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu. Sự việc lại diễn ra như lần thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả cũng gật đầu theo. ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm. Hôm sau, cụ lại cho mời hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa.

– Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường. Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng. Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ giả đã vẫy tay và gọi to:

– Anh ơi! Em ở đằng này này! Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là chồng cô. Cụ già liền dẫn chàng trai thứ ba đến trước cô vợ giả và nói:

– Như vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ manh tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô. Rồi cụ lại cho gọi cô vợ thật đến và hỏi:

– Trong ba chàng trai, không có ai là chồng cô sao?

– Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra! Cụ già liền cho ba chàng trai khác tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ:

– Anh ơi! anh ơi! Đúng đó là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất. Hai vợ chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. ông cụ tươi cười bảo:

– Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi. Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của ônh thôi! Chàng trai liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê… Hai vợ chồng sau đó liền kéo nhau trở về nhà. Họ sống bên nhau đầm ấm vui vẻ. Hai vợ chồng cùng làm ruộng. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng nghe. Ngày hội, ngày Tết, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu đời và quý mến nhau. Một buổi chiều, người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để có gió, hương hoa càng bay thơm khắp nhà.

Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai vợ chồng đều lạ lùng thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa sổ. Và sau đó, không phải chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở tiếp theo. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt. Loại hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa thiên lý. Vì sao lại có cái tên ấy? Các cụ xưa giải nghĩa: Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn thiên lý là vì ông cụ có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt tên mới cho cô và trêu cô:

– Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý. Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình…! Các cụ còn nói thêm: Cô vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối với cô vợ thật… Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên Lý, yêu mùi hương Thiên Lý. Nhưng cho đến nay càng ngày mọi người càng quý càng yêu loại hoa có mùi hương rất dung dị và mộc mạc này.

Ngày xưa, xưa xưa, có một chàng trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã quyết tâm tu luyện cho thành người để giành chàng làm chồng, mặc dù chàng đã có vợ. Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất trở về, vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ trẻ vừa xinh, vừa hiền của mình ra đón. Chàng vui lắm, đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành người và đã giả dông giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng, dáng đi… Về đến nhà, chàng trai bỗng rụng rời thấy một người vợ thứ hai bước ra… Chàng trai không còn biết ai là vợ thật của mình nữa. Hai người đàn bà trẻ giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ giúp đỡ. Nghe chàng nói rõ ngọn ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà trẻ đến.

-Cụ già lấy vải đen bịt mắt cả hai lại rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba người đàn ông khác nhau và dặn:

-Cứ ngửi đi và cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu! Cô vợ thật được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo. ông cụ liền cho mang đến ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. ông cụ dặn:

-Thứ canh nào chồng thích ăn thì gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu. Sự việc lại diễn ra như lần thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả cũng gật đầu theo. ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm. Hôm sau, cụ lại cho mời hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa.

-Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường. Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng. Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ giả đã vẫy tay và gọi to:

-Anh ơi! Em ở đằng này này! Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là chồng cô . Cụ già liền dẫn chàng trai thứ ba đến trước cô vợ giả và nói:

-Như vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ manh tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô. Rồi cụ lại cho gọi cô vợ thật đến và hỏi:

-Trong ba chàng trai, không có ai là chồng cô sao?

-Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra! Cụ già liền cho ba chàng trai khác tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ:

-Anh ơi! anh ơi! Đúng đó là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất . Hai vợ chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. ông cụ tươi cười bảo:

-Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi. Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của ônh thôi! Chàng trai liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê… Hai vợ chồng sau đó liền kéo nhau trở về nhà. Họ sống bên nhau đầm ấm vui vẻ. Hai vợ chồng cùng làm ruộng. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng nghe. Ngày hội, ngày Tết, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu đời và quý mến nhau. Một buổi chiều, người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để có gió, hương hoa càng bay thơm khắp nhà.

Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai vợ chồng đều lạ lùng thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa sổ. Và sau đó, không phải chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở tiếp theo. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt. Loại hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa thiên lý. Vì sao lại có cái tên ấy? Các cụ xưa giải nghĩa: Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn thiên lý là vì ông cụ có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt tên mới cho cô và trêu cô:

-Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý. Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình…! Các cụ còn nói thêm: Cô vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối với cô vợ thật… Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên Lý, yêu mùi hương Thiên Lý. Nhưng cho đến nay càng ngày mọi người càng quý càng yêu loại hoa có mùi hương rất dung dị và mộc mạc này.

=== một sự tích khác về hoa Thiên Lý ===

Xưa kia, nơi một miền quê hẻo lánh, có một gia đình họ Lý trú ngụ. Vợ chồng nhà quê này ăn ở với nhau sinh được hai người con: một gái và một trai. Nhưng không bao lâu, người chồng lại từ trần, để lại cho người vợ goá nuôi nấng hai con. Dần dần tuổi già sức yếu nên gia đình bà ta phải lâm vào cảnh túng cùng. Cô con gái, mà người dân trong vùng quen gọi là cô Lý, năm ấy vừa lên mười bảy tuổi. Cô ta chuyên nghề trồng hoa màu để bán lấy tiền nuôi mẹ và em. Tuy sống trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn, nhưng cô ta có một sắc đẹp mặn mà và tính tình rất nhân hậu, nên được mọi người mến thương. Vào một buổi sáng nọ, nàng Lý đang tưới hoa nơi vườn, bỗng nghe có tiếng “chiêm chíp” trong một lùm cây. Nàng ta chạy vội đến thì thấy một con chim Vàng Anh còn non đang đứng run rẩy trên cành. Có lẽ vì đêm qua mưa to gió lớn nên nó té rơi lìa ổ. Nàng Lý liền bắt lấy, rồi chạy vào nhà nhóm lửa lên sưởi ấm cho con chim. Thường ngày nàng đi bắt châu chấu về đút cho chim ăn và chăm sóc cho nó rất chu đáo, y như một người mẹ chăm sóc cho đứa con thơ. Vì thế mà con chim rất mến yêu nàng ta va không bao giờ nó xa nàng một bước. Thấm thoát… con Vàng Anh đã khôn lớn, nó cất tiếng hót thánh thót, làm cho gia đình nàng Lý cũng vui lây. Mỗi sáng, Vàng Anh thức dậy thật sớm và theo nàng ra vườn hoa bắt sâu bọ. Tối đến, nó nhảy nhót hót vang như để tạo niềm vui cho gia đình nàng Lý. Đến lúc nàng vào buồng ngủ, nó cũng theo và đậu trên đỉnh màn. Mãi cho đến mùa thu năm ấy… Nơi Kinh Đô, nhà vua cùng đoàn tuỳ tùng chuẩn bị mở cuộc săn bắn bên xứ Đông. Một hôm, trong lúc săn bắn nhà Vua vì mải mê đuổi theo một con thỏ, đến lúc bắn được con vật thì ngài cũng mệt nhoài, Ngài bèn gò cương ngựa tạt vào một xóm dân dã gần đấy để nghỉ mệt. Nhưng lạ thay! Vừa đến trước sân một ngôi nhà thấp lè tè, nhà Vua chợt nghe tiếng hát lanh lảnh ở đâu đây vọng ra làm cho ngài xao xuyến lạ thường. Nhà Vua bèn xuống ngựa nom theo một lối bước vào vườn cam thì thấy có một cô gái đang ngồi hát dưới gốc cam, ngước nhìn những quả cam vàng ối đang đu mình nặng trĩu trên cành. Ngài thấy thèm khác lạ. Tiếng hát lại im bặt vì cô gái nghe thấy tiếng động ở trong vườn. Nàng giật mình quay lại thì thấy một người đàn ông ăn mặc rất sang trọng có cốt cách quan quyền đang tiến bước về phía nàng. Người đàn ông vừa cười mỉm vừa cất tiếng khen rằng: – Chà Cô bé hát hay quá nhỉ! Nang Lý không biết đấy là nhà Vua, nên sau phút ngập ngừng e thẹn, nàng cũng vui vẻ nói với ông khách lạ rằng: – Ông khen quá lời… chứ tôi chỉ hát hỏng lăng nhăng cho vui miệng vậy thôi! – Cô cho ta mua ít cam… – Chẳng hay…ông từ đâu đến? – Ta từ..à. ta đang đi săn rồi lạc ngựa vào đây. – Trông ông có vẻ khát lắm thì phải? – Dĩ nhiên rồi ! vì trời thu mà sao lại nắng to như nắng hạ! Nàng Lý cười nhoẻn duyên dáng, rồi bẻ thoăt lấy hai trái cam to nhất, trao cho người đàn ông. Người khách vui vẻ đón lấy và bóc ra ăn. Bỗng thình lình co tiếng vó ngựa phi vang trời, và sau đấy là một đoàn quan quân kéo đến rầm rộ. Khi đoàn người vừa nhìn thấy người đàn ông thì họ có vẻ khép nép sợ hãi. Có một người trong bọn, ăn mặc theo lối quan quyền tiến vào vườn cam và quỳ dâng nước cho người đàn ông uống. Bấy giờ nàng Lý mới đoán biết rằng, chắc người khách kia cũng là bậc công hầu khanh tương chi đây. Bỗng nhiên nàng đâm ra sợ hãi, chạy biến lẩn tránh vào nhà. Kể từ hôm ấy, nhà Vua không bao giờ quên được bóng dáng người con gái quê mùa có dáng điệu nhí nhảnh, lại ca hát hay hay… Ngài bèn lệnh cho quan quân đi rước cô gái để tiến vào cung tần. Khi quan quân đến xứ Đông báo tin cho gia đình họ Lý biét ý định của nhà Vua, thì cả ba mẹ con nàng Lý đều hoảng hốt, ôm chầm lấy nhau mà khóc oà lên.

Theo thói thường, khi một gia đình nào vinh hạnh lắm mới có con được tiến vào cung. Nhưng với gia đình họ Lý thì khác, họ cho đó là một cực hình… Vì khi vào đấy rồi, thì kẻ bất hạnh ấy không bao giò còn được trông thấy mặt mẹ cha và suốt đời sẽ vĩnh viễn thu mình nơi cung cấm. Nhưng lệnh vua đã ban truyền, làm sao gia đình họ Lý dám cưỡng lại. Nàng Lý đành ôm lòng sụt sùi từ biệt mẹ và em, rồi miễn cưỡng theo đám quan quân lên đường về kinh đô. Lòng mẹ thương con bao la như biển như trời, khiến bà ta vật vã chạy theo đám quan quân, kêu gào thảm thiết… Tuổi già sức mỏi, bà ngã quỵ bên đường. Em trai nàng Lý, lòng thương chị vô cùng cũng chạy theo đám quan quân mà gào khóc… Trước cảnh chia ly não ruột ấy, nàng Lý khóc ròng, ngoảnh lại gọi em mà bảo trong tiếng chan hoà: – Em ơi! Sao em không về với mẹ già, lại chạy theo chị làm gì? Em trai nàng vừa chạy bay đến vừa đưa tay gạt nước mắt, rồi thò tay lấy con chim Hoàng Anh trong bọc áo ra đưa cho chị, nức nở bảo rằng: – Từ đây, gia đình ta đã xa lìa chị! Chỉ co con chim này là có thể theo chị được thôi. Vậy chị hãy mang nó theo đi đẻ sớm khuya co bầu bạn. Thôi em xin giã biệt chị, chị oi! Thế là hai chị em chỉ biết nhìn nhau chan hoà giọt lệ. Đứa con trai vẫn đứng chết điếng bên vệ đường, mãi cho đến lúc đoàn người khuất dạng mới chịu lần mò trở về. Trải qua mấy ngày đường, đoàn người đã về đến Kinh Đô. Nhà vua bèn truyền đưa nàng Lý vào cung để hầu hạ Công Chúa. Công Chúa kèm nàng ba tuổi, nhưng vóc dáng lại đẫy đà hơn. Tính Công Chúa thường hay gắt gỏng, và rất đanh ác. Vì vậy nàng Lý phải luôn gánh chịu mọi sự hành hạ và đầy đoạ của Công Chúa. Có một buổi sáng, tự dưng Công Chúa thấy có một con chim Vàng Anh đậu trên cành liễu, đang cất tiếng hót líu lo nghe rất vui tai, Công Chúa lấy làm thích thú, bèn gọi nàng Lý bắt con chim dâng nàng. Nhưng nàng Lý thưa rằng: – Con Vàng Anh ấy là của tôi. Nếu Công Chúa muốn bắt, thì tôi sẽ gọi nó xuống đây. – Dứt lời, cô gái giơ cao tay ngoắt, miệng mấy tiếng thì con Vàng Anh liền bay sà ngay xuống và đậu trên vai nàng. Công Chúa lấy làm lạ mới hỏi rằng: – Ngươi tìm đâu được con chim khôn ngoan vậy? – Nàng Lý bèn thuật lại mọi nguồn cơn… Nghe xong, Công Chúa bảo rằng: – Thế thì nhà ngươi phải dâng con chim Vàng Anh cho ta. Và ngươi hãy đi tìm ngay một chiếc lồng đẹp đẽ để cho ta nhốt nó vào, kẻo nó bay đi mất. – Nàng Lý cúi đầu vâng dạ. Rồi chốc sau, tay xách một chiếc lồng son rất đẹp đến dâng cho Công Chúa. Công Chúa liền bỏ con Vàng Anh vào và treo trước cửa phòng. Nhưng từ đấy, con Vàng Anh không bao giờ hót nữa. Công Chúa tức giận mới gọi nàng Lý mà bảo rằng: – Nhà ngươi phải bảo con chim nó hót cho ta nghe. Không ta sẽ đánh đòn nhà ngươi. – Bẩm, vì Công Chúa không cho Vàng Anh ăn uống thì làm sao nó hót đươc! – Công chúa liền thưởng cho nàng Lý mấy roi đích đáng bởi cái tội không nhắc để cho chim ăn uống. Rồi sai lấy gạo và nước đựng trong hai cái chén ngọc, tự tay Công Chúa để vào lông cho chim ăn. Nhưng lạ thay! Con Vàng Anh vẫn thu mình và đôi mắt lim dim đứng một xó, không hề nhích bước, Nàng Lý thấy thế, bước vội lại mà bảo khẽ rằng: ” Vàng Anh ơi ! Hãy ráng ăn đi! Không thì rã ruột đấy!”. Bấy giờ Vàng Anh mới chịu mổ lấy lệ mươi hạt gạo để nàng ta vui lòng. Song nó nhất định không chịu cất tiếng hót. – Nàng Lý lất lét nhìn Công Chúa mà lòng hồi hộp vô cùng. Đoạn nàng ra từ tốn thưa rằng: – Bẩm Công Chúa! Có lẽ Vàng Anh vì không quen ăn ở trong lồng nên nó không buồn hót – Công Chúa liền đưa tay tháo cửa lồng ra. Con Vàng Anh bay vụt ra đậu trên cành liễu rồi cất tiếng hót thánh thót… – Bỗng Công Chúa sắc mặt đỏ gay, đôi mắt nàng trừng trừng nhìn nàng Lý, tiếp theo là thưởng cho nàng mấy roi liền , bởi cái tội có con chim xấc láo, dám vô lễ trước mặt con Vua. Rồi Công Chúa hất hàm quát bảo nàng Lý: – Ngươi hãy gọi con chim xuống đây cho ta! Nàng Lý không dám cưỡng lời liền huýt mấy tiếng thì con chim bay sà xuống ngay. Nhưng ý chừng nó đoán biết là Công Chúa sẽ hành hạ mình nên Công Chúa vưa đưa tay bắt lấy thì nó kêu : ” choé ” lên và mổ luôn mấy cái vào tay Công Chúa. Công Chúa thu ngay tay về và tru tréo lên inh ỏi. Hoàng Hậu nghe thấy vội vã đến nơi thì thấy Công Chúa đang ôm lấy bàn tay rướm máu mà gào khóc vang dội. Bà vội ôm chầm lấy con, hỏi rằng: – Con làm sao thế? – Con chim Vàng Anh nó mổ co…on! – Hoàng Hậu trợn đôi mắt, quát sai lính hầu căn nọc nàng Lý đánh cho mười roi, bởi cái tội dám để con chim mổ vào bàn tay ngọc ngà của Công Chúa. Đồng thời bà cũng truyền bảo lính hầu lấy cung tên ra bắn con chim Vàng Anh lúc ấy đang đậu trên cành cho chết đi. Từ trên cành, con Vàng Anh vừa nhác thấy tên lính hầu cầm cung tên thì nó vụt bay đi mất. Mãi cho đến trời tối mịt, nó mới lần mò bay về Sáng sớm nào nàng Lý cũng ra đứng trên chiếc caauf bắc ngang dòng suối sau hậu cung, ngoảnh mặt về hướng mặt trời mọc mà khóc than sướt mướt… Đoạn nàng nhặt lấy một chiếc lá khô và nhỏ lệ vào đấy, rồi thả xuống dòng suối xuôi về phương Đông, có ý nhắn gửi tấc lòng mình xuôi về quê hương yêu dấu. Và mỗi ngày, con Vàng Anh chỉ được có mỗi dịp duy nhất này để lân la bên nàng Lý. Vì tự lúc nó chết hụt hôm nào, khiến nó sợ hãi mọi người. Rồi có một sáng sớm nọ, Công Chúa thức giấc sớm hơn mọi khi và không thấy bóng dáng nàng Lý đâu, mới rón rén lần bước tìm xem. Chợt bắt gặp cô gái đang đứng trên chiếc cầu sau hậu cung, Công Chúa vốn sẵn có tính tinh nghịch, liền rón rén chạy ra đưa tay xô nàng Lý ngã chúi xuống cầu. Bất ngờ nàng ta vì mất thăng bằng, nên đưa tay quơ mạnh về phía sau để gượng lại, không may xéo vào vạt ao của Công Chúa làm Công Chúa cũng bổ nhào xuống nước. Nhưng cũng may là con suối không sâu lắm, cho nên Công Chúa chỉ phải một phen mất vía và uống vài ngụm nước. Lính hầu trông thấy liền chạy vây xuống bồng x���c Công Chúa đem vào cung và phi báo cho Hoàng Hậu biết. Bà ta kinh ngạc chạy vào thì thấy Công Chúa đang khóc bù lu bù loa va mình mẩy ướt đẫm. Bấy giờ Công Chúa mới hoàn hồn mếu máo mà phao mách vói Hoàng Hậu rằng: – Bẩm Mẫu Hậu, con kia nó định dìm con chết đuối… Vừa nghe thế, mặt nàng Lý bỗng biến sắc và toàn thân run rẩy vừa kinh sợ. Nhưng Hoàng Hậu vốn là con người thừa xét đoán nên nghĩ rằng nàng ta không bao giờ dám làm một việc tày trời như thế. Bà ta liền truyền lệnh đem giam nàng Lý vào lãnh cung và suốt đời bị cấm cố ở đấy. Thế là nàng Lý từ đây phải sống tàn tạ nơi cung tối. Hàng ngày chỉ được bà quản cung bố thí cho một ít gạo, củi và nước. Nàng đang ngồi gục đầu khóc sướt mướt, bỗng nghe tiếng hót của con Vàng Anh, nàng liền ngước nhìn lên và huýt mấy tiếng. Tức thì con Vàng Anh bay sà xuống với dáng điệu hớn hở. Kể từ hôm ấy nàng Lý cũng vơi được sự buồn rầu vì đã có con Vàng Anh bầu bạn sớm khuya. Nhưng tiếng hót của con Vàng Anh đã thấu tai bà quản cung. Bà ta mở cửa cung tối, định tìm xem tiếng hót có phải xuất phát tại nơi này. Vừa bước chân vào, bà ta phải trố mắt ngạc nhiên nhìn thấy tận mắt con Vàng Anh đang cùng nàng Lý ăn chung bát cơm. Bà ta mới cất tiếng hỏi rằng: – Này cô bé kia ơi! Con chim của cô nuôi đấy hử? Cô nuôi tự bao giờ mà chóng được khôn ngoan như thế? – Thưa bà, tôi nuôi nó hồi con nhỏ từ lúc mới biết chuyền, và nó đã theo tôi từ quê nhà bên xứ Đông đến đây. – Ồ, thích nhỉ! – Bà xoa xít nhìn mãi con chim , rồi đánh tiếng rằng: – Hay là… cô bé cho ta con chim này đi? – Cô gái ở vào trong thế khong từ nan. Thôi thì đành cho bà ta để mong chờ nơi sự nương tay của bà, thì tấm thân của cô ta cũng đỡ phần cực nhọc. – Vâng! Nếu bà thích Vàng Anh thì xin bà nuôi lấy, vì mùa lạnh sắp đến nơi rồi. E nó lạnh lẽo tội nghiệp. – Bà ta vui mừng ôm lấy con Vàng Anh và đem nhốt vào một chiếc lồng son treo trước cửa phòng. Nhưng lạ thay! Cũng như lần trước, con Vàng Anh biếng ăn biếng uống và không bao giờ chịu cất tiếng hót. Bà quản cung tìm đủ mọi cách đẻ dỗ dành nó, nhưng tuyệt nhiên nó vẫn lạnh lùng, đứng ủ rũ trong một góc lồng, lại càng ốm o, lông xù như sắp chết. Bà ta đành ôm con chim vào trả lại cho nàng Lý, và nói rằng: – Chịu thôi! Tôi không có cách nào dỗ dành nó ăn được! Vì con chim của cô nó có nghĩa hơn người. Nếu tôi cố giữ thì ắt nó chết mất! – Bà quản cung vừa lỏng bàn tay thì con Vàng Anh vụt bay đến đậu trên vai nàng Lý hót líu lo. Chủ tớ hết sức mừng rỡ vì đã xa nhau bao ngày… Thế rồi, một buổi sáng nọ, khi choàng thức giấc, nàng Lý không thấy Vàng Anh đâu, mới đưa miệng huýt mấy tiếng gọi nó. Nhưng con Vàng Anh biệt vô âm tín. Nàng ta hết sức lo lắng, e sợ có kẻ nào bắn chết nó đi chăng?

Nhưng cô gái nào có ngờ hiện thời con Vàng Anh đang trên đường bay về xứ Đông. Khi về đến ngôi nhà cũ, nó đậu trên cành cam trước nhà và hót lên inh ỏi… Bà mẹ cô gái và đứa con trai đang ngồi ăn cơm, bất thần bà lão buông rơi đũa, rồi hớn hở bảo con rằng: – Con ơi tiếng hót ấy dường như quen thuộc lắm! Con mau chạy ra xem có phải con Vàng Anh của chị con nuôi trước kia không? – Đứa con trai trưởng là chị nó đã về tới, bèn mở toan cửa hớn hở chạy ra ngõ, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Con Vàng Anh thấy mở cửa vụt bay vào đậu trên mâm cơm bà lão và mổ lấy mấy hạt. Thấy chim , bà lão xụt xùi rơi lệ. Bà lão nghẹn ngào ôm lấy nó, hỏi rằng: – Chim ơi! Cô con hiện giờ ở đâu? Sống chết đường nào? Con mau nói cho ta rõ. Nhưng khốn nỗi con chim Vàng Anh làm sao noi s được tiếng người! Nó chỉ biết chớp mắt nhìn bà lão rồi hót lên từng hồi nhặt khoan… Bà lão cũng không biết hỏi sao, thôi đành xé lấy một mánh áo cũ của con gái buộc vào chân con Vàng Anh, rồi ra vườn nhổ lấy một dây hoa nhỏ buộc vào chân kia của con chim. Bà lão nghĩ rằng, làm như thế may ra con gái bà còn sống sẽ bắt được dấu tích của gia đình. Sáng sớm hôm sau, con Vàng Anh nhảy nhót mấy tiếng như có ý từ biệt mọi người, rồi cất cánh bay bổng lên trời. Và chiều tối hôm ấy, nó đã về tới lãnh cung, và đứng trên mái cung hót lên mấy tiếng. Đã hai hôm rồi, nàng Lý vì thương nhớ con Vàng Anh nên khóc sưng cả mắt. Nay lại vừa nghe tiếng hót của nó, nàng vui mừng vô hạn, huýt mấy tiếng thì nó bay đạu trên vai nàng. Bỗng nàng hết sức ngạc nhên vì thây nơi hai chân con Vàng Anh có mang một vật chi lòng thòng. Nàng bèn tháo vội ra và đê mắt nhìn vào thi… Chao ôi! Đây là mảnh ao của chính nàng… đây la dây hoa mà chính tay nàng trồng lúc còn ở quê nhà. Không còn nghi ngờ gì nữa, con Vàng Anh đã vừa về qua xứ Đông và những vật này là dấu tích của gia đình nàng. Thế là mẹ và em trai nàng vẫn còn mạnh khoẻ. Nàng ta trong lòng buồn vui lẫn lộn, ôm chập lấy hai vật dấu tích kia nhắm nghiền mắt lại và hình như thoáng thấy hình ảnh của mẹ và em nàng lởn vởn đâu đây. Nàng Lý bèn đem mảnh áo may gấp lại và đeo vào cổ, còn dây hoakia nàng nạy một viên gacgj ở trước cửa cung cấm lên rồi trồng nó xuống đất, vá mỗi ngày nàng thường tưới bón. Gặp mùa mưa phùn đất ẩm, không bao lâu sau, dây hoa nẩy rễ, sinh sôi tươi tốt. Nàng Lý bèn bắc một cái thân que cho dây hoa leo lên tường, thấm thoát… mùa hè đã đến. Những dây leo ấy nở hoa trổ sắc vàng vàng và hương bay ngan ngát. Trải qua ba mùa hoa nở như thế, bấy giờ dàn hoa đã phủ kín trên mái cung cấm và mùi hương bay toả khắp tam cung lục viện. Lúc ấy lại đúng vào lúc trăng tròn, nhà Vua và Hoàng Hậu thường đêm ngụ ra vườn Thượng Uyển để ngắm trăng. Nhưng bất ngờ nhà Vua khịt mũi mấy cái vì ngửi thấy mùi hoa lạ hơn thường ngày. Nhà Vua quay qua hỏi Hoàng Hậu: Hậu có ngửi thấy mùi hương là lạ không? Cũng vừa lúc Hoàng Hậu vừa gửi thấy, nên khe khẽ gật đầu. Nhà Vua đưa măt nhìn quanh tứ phía rồi lẩm bẩm: Lạ chưa, mùi hương rất kì lạ, xưa nay ta chưa từng ngửi thấy bao giờ; hay là… Thần hoa lại giáng lâm. Nhà Vua bèn sai truyền cung nữ đốt đèn đi lục tìm khắp nơi trong tam cung lục viện, khi đi đến một bức tường chợt nhìn thấy trên mái cung cấm có giống hoa chie phủ dày kín mít, và mùi hương lạ càng lúc càng nồng nặc hơn. Các cung nữ bèn xách đèn lồng đến gọi bà quản cung mở cửa cung cấm cho họ vào, khi bước vào cung tối, họ nhìn thấy một cô gái đang nằm ngủ dưới gốc dây hoa, bên cạnh là con Vàng Anh. Các cung nữ bèn lại gọi cô gái dậy và hỏi có phải mùi hương lạ là do giống hoa này tiết ra không? Thì cô ta chép miệng : “phải đó” Các cung nữ vội vàng chạy về báo tin cho nhà Vua biết. Nhà Vua cũng không hiểu tại sao nơi cung cấm lại có ai trồng giống hoa ấy tự bao giờ? ngay hôm sau, nha Vua bèn ngự đến cung cấm để xem giống hoa lạ ấy. Ngài thấy dây hoa sum sê và lá nó nhỏ như lá mơ, sắc hoa vàng hoecos mùi hương dìu dịu. Lấy làm lạ, ngài mới phán hỏi cô gái rằng: Cô bé kia, cô lấy giống hoa này ở đâu và tự bao giờ? Tâu Đức Vua, hoa này là một giống hoa mà nơi quê thiếp nó được mọc rất nhiều. Quê nhà ngươi ở đâu? và ai mang giống hoa ấy vào đây được? – Tâu Đức Vua, con Vàng Anh này mang dây hoa ấy đến cho thiếp. Rồi cô gái bày tỏ mọi nguồn cơn cho nhà Vua nghe…Lúc ấy ngài mới sực nhớ lại bóng dáng một cô gái quê mùa nhí nhảnh nơi vườn cam dạo nọ, khiến ngài động lòng thương xót vô cùng. Sau vài phút chạnh lòng, nhà Vua phán hỏi cô gái rằng: Khi xưa, nơi ngôi nhà ấy ngươi ở với ai? – Tâu Đức Vua, thiếp còn một mẹ già và đứa em trai. Bây giờ ngươi có muốn xin xỏ điều chi hãy khá tỏ bày, ta sẵn lòng ban cho. Vì ta vừa chợt nhớ lại thì… dẫu sao ta cũng còn nợ ngươi hai quả cam… – Tâu Đức Vua, thiếp muốn được trở về quê quán để phụng dưỡng mẹ già. Bỗng nhà Vua tặc lưỡi, hạ giọng: – Thế là ta lầm tưởng… ngươi được tuyển chọn vào cung tự bấy lâu nay là đã toại nguyện lắm rồi. Không ngờ… à, mà thôi, ta sẽ chiều ý ngươi…Sáng sớm ngày mai, ngươi có thể lên đường trở về quê quán. Quả nhiên hôm sau, nhà Vua truyền lệnh thả nàng Lý ra. Nàng cùng con Vàng Anh vừa đi vừa chạy để được chóng về xứ Đông… Thế rồi vào một buổi chiều nơi xứ Đông, trong lúc bà mẹ nàng Lý đang khom lưng mỏi mắt nhìn về phía chân trời, bỗng bên tai nghe tiếng : ” Mẹ ơi”. Bà lão giật mình quay phắt lại nhìn ra phía ngõ, thì rõ ràng là… chính cô con gái bà. Toàn thân bà lão run rẩy, bà lắp bắp nghẹn ngào chỉ thốt đứt quãng được mấy tiếng: “trời, con…ơi”. Lúc ấy đứa em trai nàng Lý cũng vừa chạy ra, và ba mẹ con quán quýt ôm lây nhau mà chan hoà giọt lệ…

Và kể từ thủa ấy, Vua truyền sai quan quân đi đến xứ Đông, nhặt lấy giống hoa ấy đem về Kinh Đô vun trồng trong vườn Thượng Uyển. Ngài lai đặt tên cho giống hoa ấy là Hoa Lý, để ghi nhớ nàng cung tần họ Lý có lòng hiếu thảo vẹn toàn. Về sau nơi Kinh Đô, thần dân thấy có vì “Thiên Tử” ưa chuộng giống hoa ấy, bèn gọi tặng là hoa ” Thiên Lý”

Các loại hoa màu tím kiêu sa Cách làm các loại sinh tố hoa quả cực tốt cho cơ thể Trồng hoa ban công chung cư như thế nào Hoa cưới bằng hoa rum đẹp Ý nghĩa của hoa cẩm chướng

Tổng Lãnh Thiên Thần Của Thiên Chúa

Tổng lãnh Thiên Thần Michael

1.Michael – Victoriosus – Người chiến thắng2.Gabriel – Nuntius – Sứ gỉa3.Raphael – Medicus – Thầy thuốc4.Uriel – Fortis Socius – Người đồng hành mạnh mẽ5.Jehudiel – Remunerator – Người làm ơn6.Barachiel – Adjutor – Người trợ giúp7. Sealthiel – Oarator – Người bầu cử

Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng đầu bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa. Tiên Tri Daniel đã diễn tả Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng về phía Thiên Chúa: “Thời đó, Michael là đấng vẫn thường che chở dân người.” ( Daniel 12,1).

Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?.

Theo tương truyền:

-Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.

-Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.

– Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.

Tổng lãnh Thiên Thần Michael là vị Thiên Thần có sức mạnh khả năng đi đến quyết định dứt khoát lại mang chiến thắng cho Thiên Chúa, khi giết chết con rồng mãng xà ma qủi, như sách Kinh Thánh thuật lại:„ Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến.8 Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa.9 Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó.” Khải Huyền 12, 7-9).

Tổng lãnh Thiên Thần Michael, theo vâng mệnh Thiên Chúa, đã quyết định lằn ranh giữa Trời và hỏa ngục. Vì thế , Vị Tổng lãnh Thiên Thần Michael được chọn là quan thầy bầu cử cho những người trong giờ phút cơn hấp hối.

Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel

Tên Gabri-El có ý nghĩa „ sức mạnh của Thiên Chúa”. Là Vị sứ gỉa của Thiên Chúa được sai đến báo tin cho thiếu nữ Maria ở làng Nazarethê, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sẽ đầu thai làm người trong cung lòng Maria:” Sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng sẽ phủ rợp bóng trên chị… ( Lc 1,26/38).

Khi hiện ra với Ngôn sứ Dacharia trong đền thờ, vị Tổng lãnh Thiên Thần đã nói: „ Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.” ( Lc 1,19).

Hằng ngày trong đời sống đức tin của Hội Thánh, vào lúc 12.00 giờ trưa chuông thánh đường đổ hồi, kinh tuyền tin được xướng đọc lên. Như vào mỗi ngày Chúa Nhật lúc 12.00 giờ trưa, Đức Thánh Cha từ trên cửa sổ văn phòng làm việc cùng đọc kinh truyền tin với mọi người Gíao dân đứng tụ tập ở quảng trường Thánh Phero bên Vatican.

Tiếng chuông lúc 12.00 trưa và Kinh Truyền tin nhắc nhớ đến Tổng lãnh Thiên Thần Gabri-El, là Sứ Gỉa của Thiên Chúa mang loan báo tin vui Chúa Giêsu Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người.

Tổng lãnh Thiên Thần Rafael

Tên Rafa-El mang ý nghĩa „ Thiên Chúa chữa lành”. Trong Kinh Thánh sách Tobia thuật lại Thiên Thần Rafael vâng mệnh Thiên Chúa chữa lành bệnh mắt cho Tobia:

„Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa.17 Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa.” ( Tobia 3, 16″)

Thiên Thần Rafael luôn hằng đồng hành che chở Tobia trên đường đi. ( Tobia 6, 10)

Tổng lãnh Thiên Thần Rafael trở thành bổn mạng phù hộ cho con người đi xa du lịch

Ông Bà Cha Mẹ nào ngay từ lúc con cháu còn nhỏ thơ bé cũng đều to nhỏ âm thầm cầu xin với các Thiên Thần phù hộ cho đời sống thể xác lẫn tinh thần của chúng. Bằng an hồn xác là nhu cầu căn bản rất cần thiết cho đời sống.

Sống lòng bác ái giúp đỡ nhau, kính trọng sự sống, điều chân thật lẽ phải luôn là nhu cầu làm nên khung nền kiến tạo đường đời sống tình liên đới con người với nhau trong xã hội.

Sống thể hiện một đời sống trong tương quan tình liên đới với Đấng là nguồn đời sống, nguồn tình yêu và ơn tha thứ, luôn là nhu cầu khát vọng của tinh thần con người ở đời.

Nhu cầu tinh thần này không chỉ là nhu cầu thiêng liêng đạo giáo, nhưng đó là nhu cầu đời sống văn hóa của con người ở vào mọi thời đại. Nhu cầu tinh thần văn hóa này cùng với những nhu cầu khác cho sự sống thể xác giúp đời sống có đầy đủ ý nghĩa, triển nở cùng mang đến niềm vui hạnh phúc.

Các Thiên Thần của Thiên Chúa là Sứ gỉa được Thiên Chúa gửi sai đến cùng đồng hành trợ giúp con người trong mọi hoàn cảnh đời sống thể hiện tình lòng thương xót bác ái vị tha.

Với người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa là Đấng của sự chân thật, sự tốt lành thiện hảo, là Thiên Chúa của lòng khoan dung tha thứ qua Thánh Gía Chúa Giêsu Kitô.

Lòng tin vào Thiên Thần vượt qúa khỏi sự suy hiểu cùng thắc mắc của trí khôn con người. Thắc mắc thuộc về đời sống con người. Và thắc mắc giúp con người tỉnh thức thêm ra.

Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa, 29.09.

Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long