Top 13 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Tên Trường Phúc Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Welovelevis.com

Tên Cao Trường Phúc Ý Nghĩa Gì, Tốt Hay Xấu?

Gợi ý một số tên gần giống đẹp nhất:

Luận giải tên Cao Trường Phúc tốt hay xấu ?

Thiên Cách là đại diện cho cha mẹ, bề trên, sự nghiệp, danh dự. Nếu không tính sự phối hợp với các cách khác thì còn ám chỉ khí chất của người đó. Ngoài ra, Thiên cách còn đại diện cho vận thời niên thiếu.

Thiên cách tên của bạn là Cao có tổng số nét là 9 thuộc hành Dương Thủy. Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ HUNG (Quẻ Bần khổ nghịch ác): Danh lợi đều không, cô độc khốn cùng, bất lợi cho gia vận, bất lợi cho quan hệ quyến thuộc, thậm chí bệnh nạn, kiện tụng, đoản mệnh. Nếu tam tài phối hợp tốt, có thể sinh ra cao tăng, triệu phú hoặc quái kiệt

Địa cách còn gọi là “Tiền Vận” (trước 30 tuổi) đại diện cho bề dưới, vợ con, và thuộc hạ, người nhỏ hơn mình, nền móng của người mang tên đó. Về mặt thời gian trong cuộc đời, Địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận.

Địa cách tên bạn là Trường Phúc có tổng số nét là 14 thuộc hành Âm Hỏa. Địa cách theo tên sẽ thuộc quẻ HUNG (Quẻ Phù trầm phá bại): Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Nhân cách: Còn gọi là “Chủ Vận” là trung tâm của họ và tên, vận mệnh của cả đời người do Nhân Cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Giống như mệnh chủ trong mệnh lý, Nhân cách còn là hạt nhân biểu thị cát hung trong tên họ. Nếu đứng đơn độc, Nhân cách còn ám chỉ tính cách của người đó. Trong Tính Danh học, Nhân cách đóng vai trò là chủ vận.

Nhân cách tên bạn là Cao Trường có số nét là 13 thuộc hành Dương Hỏa. Nhân cách thuộc vào quẻ BÁN CÁT BÁN HUNG (Quẻ Kỳ tài nghệ tinh): Sung mãn quỷ tài, thành công nhờ trí tuệ và kỹ nghệ, tự cho là thông minh, dễ rước bất hạnh, thuộc kỳ mưu kỳ lược. Quẻ này sinh quái kiệt.

Ngoại cách chỉ thế giới bên ngoài, bạn bè, người ngoài xã hội, những người bằng vai phải lứa, quan hệ xã giao. Vì mức độ quan trọng của quan hệ giao tiếp ngoài xã hội nên Ngoại cách được coi là “Phó vận” nó có thể xem phúc đức dày hay mỏng.

Ngoại cách tên của bạn là họ Phúc có tổng số nét hán tự là 10 thuộc hành Âm Thủy. Ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ ĐẠI HUNG (Quẻ Tử diệt hung ác): Là quẻ hung nhất, đại diện cho linh giới (địa ngục). Nhà tan cửa nát, quý khóc thần gào. Số đoản mệnh, bệnh tật, mất máu, tuyệt đối không được dùng.

Tổng cách (tên đầy đủ)

Tổng cách thu nạp ý nghĩa của Thiên cách, Nhân cách, Địa cách nên đại diện tổng hợp chung cả cuộc đời của người đó đồng thời qua đó cũng có thể hiểu được hậu vận tốt xấu của bạn từ trung niên trở về sau.

Tên đầy đủ (tổng cách) gia chủ là Cao Trường Phúc có tổng số nét là 22 thuộc hành Âm Mộc. Tổng cách tên đầy đủ làquẻ ĐẠI HUNG (Quẻ Thu thảo phùng sương): Kiếp đào hoa, họa vô đơn chí, tai nạn liên miên. Rơi vào cảnh ngộ bệnh nhược, khốn khổ. Nữ giới dùng tất khắc chồng khắc con.

Mối quan hệ giữa các cách

Số lý của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Hỏa” Quẻ này là quẻ Tính nóng, gấp; khí huyết thịnh vượng; chân tay linh hoạt, ham thích hoạt động.Thích quyền lợi danh tiếng, có mưu lược tài trí hơn người, song hẹp lượng, không khoan nhượng. Có thành công rực rỡ song khó bền.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Thủy – Dương Hỏa – Âm Hỏa” Quẻ này là quẻ : Thủy Hỏa Hỏa.

Bạn vừa xem xong kết quả đánh giá tên Cao Trường Phúc. Từ đó bạn biết được tên này tốt hay xấu, có nên đặt hay không. Nếu tên không được đẹp, không mang lại may mắn cho con thì có thể đặt một cái tên khác. Để xem tên khác vui lòng nhập họ, tên ở phần đầu bài viết.

Tên Con Nguyễn Trường Phúc Có Ý Nghĩa Là Gì

Về thiên cách tên Nguyễn Trường Phúc

Thiên Cách là đại diện cho mối quan hệ giữa mình và cha mẹ, ông bà và người trên. Thiên cách là cách ám chỉ khí chất của người đó đối với người khác và đại diện cho vận thời niên thiếu trong đời.

Thiên cách tên Nguyễn Trường Phúc là Nguyễn, tổng số nét là 7 và thuộc hành Dương Kim. Do đó Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn là quẻ CÁT. Đây là quẻ có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.

Xét về địa cách tên Nguyễn Trường Phúc

Ngược với thiên cách thì địa cách đại diện cho mối quan hệ giữa mình với vợ con, người nhỏ tuổi hơn mình và người bề dưới. Ngoài ra địa cách còn gọi là “Tiền Vận” ( tức trước 30 tuổi), địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận tuổi mình.

Địa cách tên Nguyễn Trường Phúc là Trường Phúc, tổng số nét là 14 thuộc hành Âm Hỏa. Do đó địa cách sẽ thuộc vào quẻ Phù trầm phá bại là quẻ HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về nhân cách tên Nguyễn Trường Phúc

Nhân cách là chủ vận ảnh hưởng chính đến vận mệnh của cả đời người. Nhân cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Nhân cách là nguồn gốc tạo vận mệnh, tích cách, thể chất, năng lực, sức khỏe, hôn nhân của gia chủ, là trung tâm của họ và tên. Muốn tính được Nhân cách thì ta lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên.

Nhân cách tên Nguyễn Trường Phúc là Nguyễn Trường do đó có số nét là 11 thuộc hành Dương Mộc. Như vậy nhân cách sẽ thuộc vào quẻ Vạn tượng canh tân là quẻ ĐẠI CÁT. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Về ngoại cách tên Nguyễn Trường Phúc

Ngoại cách là đại diện mối quan hệ giữa mình với thế giới bên ngoài như bạn bè, người ngoài, người bằng vai phải lứa và quan hệ xã giao với người khác. Ngoại cách ám chỉ phúc phận của thân chủ hòa hợp hay lạc lõng với mối quan hệ thế giới bên ngoài. Ngoại cách được xác định bằng cách lấy tổng số nét của tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách.

Tên Nguyễn Trường Phúc có ngoại cách là Phúc nên tổng số nét hán tự là 10 thuộc hành Âm Thủy. Do đó ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ Tử diệt hung ác là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về tổng cách tên Nguyễn Trường Phúc

Tổng cách là chủ vận mệnh từ trung niên về sau từ 40 tuổi trở về sau, còn được gọi là “Hậu vận”. Tổng cách được xác định bằng cách cộng tất cả các nét của họ và tên lại với nhau.

Do đó tổng cách tên Nguyễn Trường Phúc có tổng số nét là 20 sẽ thuộc vào hành Âm Thủy. Do đó tổng cách sẽ thuộc quẻ Phá diệt suy vong là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ trăm sự không thành, tiến thoái lưỡng nan, khó được bình an, có tai họa máu chảy. Cũng là quẻ sướng trước khổ sau, tuyệt đối không thể dùng.

Quan hệ giữa các cách tên Nguyễn Trường Phúc

Số lý họ tên Nguyễn Trường Phúc của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Mộc” Quẻ này là quẻ Người này tính tình an tịnh, giàu lý trí , ôn hậu, hoà nhã. Có tinh thần kiên cường bất khuất. Bề ngoài chậm chạp mà bên trong ẩn chứa năng lực hoạt động rất lớn.Sự thành công trong cuộc đời thuộc mô hình tiệm tiến, nhưng vững chắc, lâu bền.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Dương Mộc – Âm Hỏa” Quẻ này là quẻ Kim Mộc Hỏa: Trong cuộc sống thường bị chèn ép, không thành công trong sự nghiệp, cuộc đời nhiều biến động không yên ổn (hung).

Kết quả đánh giá tên Nguyễn Trường Phúc tốt hay xấu

Tên Trường Và Biểu Tượng

Ý NGHĨA TÊN TRƯỜNG

Mẫu hình “Thành phố Đại học” đang vươn mình phát triển nơi vùng đất chín rồng vô cùng vinh dự và tự hào được mang tên Võ Trường Toản – Một trong những người thầy đầu tiên của nền giáo dục Việt Nam. Nổi tiếng là thầy đồ học rộng, tài cao, uyên bác hơn người, luôn được thế hệ con cháu nhắc đến và vinh danh.

Thầy được các sĩ phu Nam Bộ tôn là “Thái sơn Bắc đẩu”. Suốt cuộc đời, thầy đã sống thanh bạch không màng danh lợi, không chịu ra làm quan, mà chỉ chuyên tâm đọc sách, viết sách và dạy học.

Thầy chú tâm vào việc đào tạo môn sinh nên người và thành tài. Thầy đã mở trường đào tạo những nhà chính trị quân sự, văn hóa, giáo dục kiệt xuất nổi danh ở đất Gia Định thời bấy giờ. Các thế hệ nho sĩ và sĩ phu ở Gia Định xưa, dù không trực tiếp thọ giáo thầy nhưng đều là học trò của các môn đệ do thầy đào tạo. Tất cả đều rất kính trọng tài đức và học thông sách của thầy truyền lại.

Triết lý giáo dục sâu xa của Võ Trường Toản trải qua gần 300 năm vẫn còn vẹn nguyên ý nghĩa. Tiếp nối nghề cao quý ấy, toàn thể cán bộ, giảng viên luôn tâm niệm gắng sức xây dựng Trường Đại học Võ Trường Toản ngày càng lớn mạnh cả nguồn nhân lực và vật lực. Tập trung đào tạo thế hệ nhân tài cho đất nước trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế với nền tảng đầu tiên là đạo đức, xứng đáng với tên gọi cụ đồ đạo cao, đức trọng Võ Trường Toản.

Để bây giờ và mãi về sau, tên tuổi của cụ sáng ngời như tấm gương sáng về truyền thống hiếu học và tinh thần nghìn năm văn hiến của dân tộc.

Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG

Biểu tượng chính thức Trường Đại học Võ Trường Toản

Logo Trường Đại học Võ Trường Toản có hình dáng của một chiếc khiên.

– Chiếc khiên – Biểu tượng của sự cân bằng, rắn rỏi và bền vững.

Thể hiện thế đứng vững vàng của một trường đại học uy tín và chất lượng.

Chiếc khiên mạnh mẽ mang đặc tính bảo vệ, tại Trường Đại học Võ Trường Toản, mỗi sinh viên là một công dân của “Thành phố Đại học” – Mang phong cách kiến trúc Châu Âu với chất lượng giáo dục đạt chuẩn và đều được hưởng một nền giáo dục chuyên nghiệp hiện đại mang tầm vóc khu vực.

Chiếc khiên tượng trưng cho lòng dũng cảm, Trường Đại học Võ Trường Toản luôn phấn đấu trở thành một tập thể thống nhất, tiến bước đi đầu trong công cuộc đào tạo nguồn nhân lực tri thức.

Chiếc khiên thể hiện ý chí kiên cường, sẵn sàng đương đầu vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn, con đường vươn đến tầm cao tri thức có rất nhiều chông gai và thử thách, trong giai đoạn hoàn thiện cơ sở vật chất, Trường Đại học Võ Trường Toản vẫn luôn nỗ lực tạo môi trường học tập và sinh hoạt tốt nhất cho sinh viên tư duy sáng tạo.

Biểu tượng của Trường Đại học Võ Trường Toản có một đỉnh nằm ở vị trí trung tâm, nói lên tính năng phát triển thông qua ý nghĩa định hướng tập trung và mạnh mẽ. Thể hiện khát vọng hướng đến tương lai, hướng đến những gì tốt đẹp nhất trong hành trình khám phá những chân trời tri thức mới.

– Hình tượng hai bông lúa trang nhã màu vàng tạo thành vòng cung bao quanh, gợi liên tưởng về no ấm, hòa bình, hạnh phúc. Hạt lúa như biểu trưng toàn vẹn nhất cho thịnh vượng và phát triển lâu bền. Tạo mối liên tưởng đến nghề giáo cao quý, dưới mái trường Đại học Võ Trường Toản, những hạt giống tri thức đã được ươm mầm, vươn cao chồi non hy vọng và xanh tươi cành lá để chắp cánh cho mơ ước thành công.

Trường Đại học Võ Trường Toản tọa lạc tại cái nôi của nền văn minh lúa nước, nơi khởi đầu “con đường lúa gạo” vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Cây lúa ngàn đời nuôi sống người dân Việt, vì vậy hình tượng bông lúa mang ý nghĩa thật đặc biệt và chính là đại diện đặc trưng nhất cho Tổ quốc Việt Nam.

– Biểu tượng quyển sách giữa logo với năm thành lập của trường mang ý nghĩa đây là một mốc thời gian quan trọng đánh dấu sự ra đời của một “Thành phố Đại học”.

Từ đây, một trang sách mới hứa hẹn tương lai tươi sáng với nhiều điều tốt đẹp đã mở ra, nền giáo dục hiện đại như một quyển sách mở cung cấp kiến thức làm nền tảng để nhà trường truyền đạt đến sinh viên.

Ý Nghĩa Tự Do Trong Đoạn Trường Tân Thanh

Ý NGHĨA TỰ DO TRONG ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH

PHẠM TRỌNG LỆ

Cũng xin dè dặt: việc phê phán tác giả qua cốt truyện chỉ có giá trị tương đối, vì Nguyễn Du mượn tạm cốt truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân để viết nên Ðoạn Trường Tân Thanh, cũng như kịch tác gia Shakespeare mượn tạm cốt truyện xưa để viết nên những kịch phẩm La Mã bất hủ.

Trước hết, chúng tôi đồng ý phần nào với Vân Hạc Lê Văn Hòe rằng “Truyện Kiều giá trị không ở tư tưởng đạo đức, luân lý hay triết lý, cũng không ở cốt truyện, hay cách bố cục kết cấu, tình tiết. Cái giá trị tuyệt đối của Truyện Kiểu là ở văn chương…” Chúng tôi muốn chứng minh rằng qua những nhân vật chính như Kiều, Từ Hải, Kim, Thúc, v.v…Nguyễn Du hàm ẩn một quan niệm về tự do rằng: con người đầy đủ phải là con người biết rung động chân thành, có lý trí, biết hòa hợp với thiên nhiên, ghét nỗi bất công trong xã hội, nghĩa là một con người nghệ thuật và tự do.

A. Quan niệm của Nguyễn Du về Tự do

Nguyễn Du viết Ðoạn Trường Tân Thanh (ÐTTT) để chứng minh thuyết Tài Mệnh Tương Ðố bằng cuộc đời Thuý Kiều? Ðể khuyên người đời giữ thiện tâm ? Ðể gửi gấm tâm sự của một  « hàng thần »? Ðây cũng là lập luận của một số nhà phê bình từ trước đến nay. Ðoạn mở đầu và đoạn cuối của Truyện Kiều khiến ai đọc cũng tin là chủ đích của Nguyễn Du là để chứng minh thuyết Tài Mệnh Tương Ðố :

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau…

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh tao mới được phần thanh tao.

Phạm Quí Thích (1760-1825) cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820) trong bài “Tổng vịnh Truyện Kiều” viết rằng:

Cho hay những kẻ tài tình lắm,

Trời bắt làm gương để thế gian.

Chu Mạnh Trinh (1862-1905) cũng viết:

Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh,

Duyên may dun dủi lưới Tiền Ðường.

Bùi Kỷ, trong bài Truy điệu Tiên Ðiền năm 1927 cho biết một phần tâm sự Nguyễn Du:

Gặp cơn Lê thị suy vi,

Kinh thành muốn lở, thăng trì muốn vơi.

Giang hồ lăng miếu một thân,

Ðật dân bỗng hóa hàng thần lạ thay!

Há chẳng biết cao bay xa chạy,

Cái công danh là bẫy trên đời,

Song le con tạo trêu ngươi,

Buộc nhau chỉ một chữ thời mà đau.

Muốn động đến cửu toàn linh thính,

Hỏi bao giờ tài mệnh không ghen.

Theo thiển ý, khi viết ÐTTT, Nguyễn Du rất khéo léo: ngài không chỉ có ý chứng minh thuyết Tài Mệnh Tương Ðố, mà cũng không viết ÐTTT chỉ với mục đích đem Kiều ra làm gương cho đời như những nhà phê bình đứng trên bình diện luân lý đã nhận xét. Nguyễn Du dường như có một tâm sự mâu thuẫn: một mặt thì không nỡ đả phá những hệ thống sẵn có của một xã hội Khổng, Phật, Lão ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19. Nhưng ngài muốn ẩn tàng một ý niệm tự do của con người trong một thời đại mà những lễ nghi, tôn giáo, chính trị đang thay đổi. Cũng cần biết là cuối thế 18 đầu thế kỷ 19 là một giai-đoạn có nhiều biến chuyển về khoa học có ảnh hưởng đến những quan niệm về triết lý, thần quyền và quân quyền. Nguyễn Du vốn là người lịch duyệt, từng đi sứ sang Tàu, chắc hẳn biết những những phát triển về khoa học và triết lý chẳng những trong thời đại ngài mà cả những thời đại trước.

Xin lược qua: ngay từ thế kỷ thứ hai cho đến thời Phục Hưng (từ thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 16), quan niệm cho rằng trái đất là trung tâm vũ trụ (Ptolemaic system) không còn được chấp nhận nữa. Sau đó có những khám phá về hàng hải như năm 1512 Magellan đi vòng quanh trái đất; năm 1543 nhà thiên văn học Copernicus chứng tỏ rằng mặt trời, chứ không phải là trái đất, là trung tâm hành tinh hệ; Galileo chế ra viễn-vọng-kính năm 1609; Newton khám phá ra luật hấp dẫn lực vào thế kỷ 17; Lavoisier (1743-1797) hệ thống hóa môn phân tích định lượng hoá học. Về mặt chính trị thì Rousseau viết cuốn Xã Ước (Du Contrat Social) năm 1762 chủ trương dân quyền, chống lại quan niệm vương quyền của Hobbes (tác giả cuốn Leviathan) viết năm 1651 cho rằng con người ở trạng thái tiền xã hội rất man dã và vị kỷ nên tự nguyện chuyển nhượng những quyền thiên nhiên (natural rights) của mình cho một vị vua để đổi lại được hoà bình và an ninh. John Locke, triết gia người Anh, cũng nói rằng con người ở trạng thái tự nhiên khi chưa có xã hội thì đã có luật thiên nhiên (natural law) trong đó con người có quyền sống, tự do và có tài sản (Second Treatise on Government, 1688). Năm 1776 Thomas Jefferson khi viết ý này trong bản Tuyên ngôn Ðộc lập Hoa-Kỳ, trong đoạn đầu, có nói rằng:

«… Mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng con người được Thượng Ðế ban cho quyền bất khả nhượng là quyền sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc, rằng để thực hiện và bảo đảm những quyền này con người mới thành lập ra chính phủ và cho chính phủ những quyền chính đáng đặt trên sự thoả thuận của người dân…rằng bất cứ khi nào một hình thức chính phủ trở nên huỷ hoại đối với những cứu cánh trên thì người dân có quyền thay đổi hay huỷ bỏ chính phủ đó và thiết lập một chính phủ khác đặt trên nền tảng những nguyên tắc sao cho có thể đem lại cho dân an ninh và hạnh phúc. » (Xem Declaration of Independence)

Tóm lại, con người ngay từ thời Phục Hưng đã bắt đầu nghi ngờ về thuyết tiền định khi thấy thiên văn tạo vật cũng thay đổi chứ không hoàn toàn bất biến. (Trong ÐTTT Kim Trong cũng an ủi Kiều rằng «Xưa ngay nhân định thắng thiên cũng nhiều.») Con người với tư tưởng của Locke, Rouseau và Jefferson, không còn tin tưởng vào quân quyền nữa. Trong văn chương con người đã trở thành chủ điểm. Những nhà văn lãng mạn bắt đầu mô tả con người với những dục tình mãnh liệt. Khi Nguyễn Du còn trẻ, chắc ngài đã biết những thành quả của Nguyễn Huệ cùng sự xâm nhập của nước ngoài vào Việt Nam. Khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh năm 1789 (cũng là năm cách mạng Pháp bùng nổ) thì Nguyễn Du đã 24 tuổi. Theo sử gia Trần Trọng Kim thì người ngoại quốc đã đến Việt Nam ngay từ đầu thế kỷ 17. Năm 1614 đời chúa Sãi có người Bồ Ðào Nha tên Jean de La Croix đến lập lò đúc súng tại Thuận Hoá, năm 1637 người Hoà Lan được chúa Trịnh cho phép mở cửa hàng buôn bán ở Phố Hiến thuộc Hưng Yên đông đến « 1,000 nóc nhà, làm thành ra chỗ vui vẻ lắm », cho nên tục ngữ bấy giờ có câu rằng:« Thứ nhất Kinh-kỳ, thứ nhì phố Hiến. » (Việt Nam Sử Lược, quyển nhì, trang 96).

B. Những Tự do trong Truyện Kiều

Nếu chấp nhận giả thuyết rằng Nguyễn Du cũng am hiểu không nhiều thì ít những biến đổi của thời đại ông, và ông có suy nghĩ, diễn đạt vào những nhân vật trong truyện Kiều một ý-niệm tự do nhân bản rằng con người đầy đủ là con người biết rung động, có lý trí, có tín ngưỡng; lòng thành có thể động đến quỉ thần (« Kiều rằng những đấng tài hoa/Thác là thể phách còn là tinh anh »); yêu tự do, ghét bất công (« Anh hùng tiếng đã gọi rằng/Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha… Phong trần mài một lưỡi gươm/Những phường giá áo túi cơm xá gì.») v.v.. thì có thể tóm tắt ý niệm tự do của ngài vào khía cạnh: tự do cá nhân, tự do nghệ thuật và tự do xã hội.

Ngay từ đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết: «Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.» Ðiều đó chứng tỏ kinh nghiệm sống của tác giả cũng có phần nào ảnh hưởng đến truyện Kiều. Trong bài « Tế Thập Loại Chúng Sinh » ngài cũng nói « Ðau đớn thay phận đàn bà. » Ngài ắt hẳn thấy số phận của người đàn bà nói riêng, hay số phận của người nghệ sĩ nói chung, trong một xã hội đầy khuôn mẫu gò bó. Mà vượt ra khỏi những khuôn mẫu đó là một đòi hỏi của tự do cá nhân. Nếu không chấp nhận tiền đề này thì khó có thể hiểu tại sao Nguyễn Du tạo cho nhân vật Kiều vượt ra ngoài khuôn mẫu đạo đức của một xã hội Khổng, Mạnh. Trong một xã hội phong kiến, với những khắt khe của đạo đức, Kiều đã được theo học như nam giới, thi hoạ cầm kỳ, để có thể đối ẩm với nam giới. Kiều lại còn tự ý gắn bó với người yêu đang khi cha mẹ đi vắng, lẻn sang nhà trai tình tự (« Săm săm băng lối vườn khuya một mình…Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa/Bây giờ tỏ mặt đôi ta /Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao. ») Hơn nữa, khi đã đi lấy Mã Giám Sinh, Kiều còn dám nhờ cha lo dùm chuyện Kim Trọng (« Lạy thôi nàng lại rén chuyền/Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi. »)

Nhưng nếu nhân vật Kiều biểu tượng cho tự do cá nhân thì cái tự do này cũng đi đôi với lý trí. Hãy xem như khi Kim Trọng có ý lơi lả, Kiều đã biết ngưng lại :

Ðã cho vào bậc bố kinh.

Ðạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.

Ra tuồng trên bộc trong dâu,

Thì con người ấy ai cầu làm chi.

….

Vội chi ép liễu hoa nài,

Còn thân còn một đền bồi có khi.

Quyết định thứ hai của Kiều, theo thiển ý, là một quyết định tự do, ấy là khi Kim Kiều tái hợp, Kiều xin đổi tình vợ chồng ra tình bạn bè. Nếu cho rằng một hành động tự do là một hành động mà người hành xử không bị cưỡng chế, ở trong một hoàn cảnh thuận lợi, và biết rõ về hậu quả về hành động của mình thì khi quyết định như vậy, Kiều đã hành động như một con người tự do, có lý trí, ngược lại sự năn nỉ của Kim và sự khuyến dụ của gia đình. Mà tự do cá nhân chẳng qua là căn bản của tự do nghệ thuật. Trong Truyện Kiều không thiếu những cảnh đáng bị « kiểm duyệt. » Thí dụ như cảnh Tú Bà dạy Kiều cách tiếp khách: Nghề chơi cũng lắm công phu.

Hay cảnh Kiều tắm:

Buồng the gặp buổi thong dong,

Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,

Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên.

Trong cái tình huống ấy, Thúc sinh như một nghệ sĩ tài hoa, làm một bài thơ vịnh cảnh Kiểu tắm: “Ngụ tình tay thảo một thiên luật Ðường,” và được khen là “Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu” Nếu Thuý Kiều và tài sắc của nàng biểu tượng cho một tự do cá nhân thì đó cũng là đối tượng của người nghệ sĩ. “Văn sĩ, giai nhân,” Chu Mạnh Trinh, trong “Bài Tựa Truyện Kiều,” đã bảo là “cùng kiếp hoa nghiêm nặng nợ,” và nhận là “ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu” (bản dịch của Ðoàn Quì). Tiên Phong Mộng Liên Ðường chủ nhân trong bài tựa Truyện Kiều cũng viết rằng: Thuý Kiều khóc Ðạm Tiên, Tố Như Tử làm truyện Thuý Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một; người đời sau thương người đời nay; người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là một cái thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa và nay vậy.” (bài Tựa Truyện Kiều của Tiên Phong Mộng Liên Ðường Chủ nhân làm tháng hai niên hiệu Minh Mệnh, in lại trong Truyện Thúy Kiều, do Bùi Kỷ và Trần trọng Kim hiệu đính (Saigon: Tân Việt, 1968) in lần thứ tám, tr. XLVIII.

Khía cạnh thứ ba của tự do là khía cạnh xã hội. Qua nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du dường như hé cho ta thấy một xã hội bất công, và một nghi vấn về tính cách hợp pháp của một chế độ quân chủ chuyên chế. Theo truyện Tàu thì Từ là một tướng giặc, nhưng suốt trong truyện không thấy Nguyễn Du tả Từ như một tướng giặc, mà là một nghệ sĩ, “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.” Từ cách ăn nói, đến cử chỉ và diện mạo của Từ, và lời thưa gửi lễ phép của Kiều, Từ là một người khí phách:

Lại đây xem mặt cho gần,

Phỏng tin được một vài phần hay không.

Thưa rằng lượng cả bao dung,

Tấn dương được thấy mây rồng có phen.

Tính cách “đế vương” của Từ Hải được diễn tả qua những chiến công hiển hách của nhân vật này:

Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,

Binh uy từ đấy sấm vang trong ngoài.

Triều đình riêng một góc trời,

Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà,

Ðòi cơn gió quét mưa sa

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam.

Từ không phải là hạng võ dũng vô mưu. Khi Hồ Tôn Hiến dụ hàng, Từ đã nghi ngờ:

Một tay gây dựng cơ đồ

Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành,

Bó thân về với triều đình,

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu!

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi!

Sao bằng riêng một biên thuỳ,

Sức này đã dễ làm gì được nhau.

Thật là khẩu khí của một người làm chúa một biên thuỳ, chẳng phải là lời một tên giặc! Ngay khi đã yên rồi mà dư âm còn âm ỉ: “Sóng yên Phúc Kiến lửa tàn Triết Giang.” Nếu không phải là người ham muốn tự do chắc không thể chấp nhận để cho nhân vật Từ nói lên những lời bằng những từ ngữ dành cho bậc vua chuá.

Tuy nhiên, như đã trình bầy ở trên, Nguyễn Du rất khéo: ngài tôn trọng cốt truyện để Từ phải chết. Dầu chết mà phí phách vẫn phi thường:

Khí thiêng khi đã về thần,

Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.

Nguyễn Du không thể để Từ thắng triều đình nhà Minh (tuy đã tả là “gồm hai văn võ vạch đôi sơn hà”) vì như vậy là đảo lộn trật tự xã hội trong đó trật tự quân thần chỉ là một hình ảnh của trật tự thiên nhiên và vũ trụ theo như quan niệm quân chủ xưa. (E.M.W.Tillyard, The Elizabethan World Picture, 1943). Cũng như Shakespeare, Nguyễn Du không tán thành sự nổi loạn. Ngài chỉ hé mở cho ta thấy một nghi vấn về tính cách hợp pháp của một nền quân chủ chuyên chế. Trong một xứ rộng lớn như Trung Hoa, dầu nhà vua được tả là “Rằng ơn thánh đế dồi dào/Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu” mà những mục nát, bất công đầy rẫy (“Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”); buôn người về làm ca nương, con quan Lại bộ thượng thư mà trong nhà nuôi bọn tôi tớ giao cho cả việc bắt cóc người về hành hạ. Một xã hội được tả là “Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng” mà một vị tướng giặc như Từ Hải có thể “Năm năm hùng cứ một phương hải tần” và có thể sai hai đạo quân đi bắt người về để trả ân oán “Ðạo ra Vô Tích đạo vào Lâm Truy” thật dễ dàng thì đủ hiểu uy-quyền của trung ương lỏng lẻo đến mức nào!

C. Kết luận

Tóm lại, nếu câu nói của Buffon đọc trước hàn lâm viện Pháp năm 1753, rằng “qua văn phong ta có thể biết chính người viết vậy,” (Le style, c’est l’homme même) có phần nào đúng thì ta có thể kết luận là khi viết ÐTTT, Nguyễn Du không chỉ muốn chứng minh thuyết Tài Mệnh Tương Ðố hay dùng gương Kiều để người đời soi chung mà thôi. Viết Truyện Kiều, phải chăng Nguyễn Du đã sử dụng nhiều khía cạnh khác nhau của nhiều nhân vật khác nhau để hé mở cho độc giả thấy một ý niệm tự do. Với tâm hồn nghệ sĩ, với kinh nghiệm của một người đi và sống nhiều, thấy cảnh nước loạn dân khổ–từ khi chia đôi Nam Bắc với Trịnh-Nguyễn phân tranh đến hết thời Nguyễn Huệ tới thời Gia Long, Việt Nam luôn luôn có chiến tranh, hoặc trong nước hoặc chinh phạt nước ngoài– ngài ắt hiểu những lẽ biến chuyển của tạo hoá và chính trị đương thời nên đã cho ta thấy ba khía cạnh chính của một ý niệm tự do nhân bản: ấy là tự do cá nhân, tự do nghệ thuật và tự do xã hội.