Top 10 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Tên Truyện Rừng Xà Nu Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Welovelevis.com

Ý Nghĩa Của Truyện Rừng Xà Nu Của Nguyễn Trung Thành

Home ” Lớp 12 ” Ý nghĩa của truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

Ý nghĩa của truyện:

a. Qua nhan đề tác phẩm: Cũng giống như Thu Bồn trong Bài ca chim Chơ-rao, Ngọc Anh trong Bóng cây kơ-nia, Nguyễn Trung Thành trong Rừng xà nu lấy một hình ảnh tiêu biểu, quen thuộc của vùng đất Tây Nguyên là cây xà nu, rùng xà nu để nổi lên sức sống bền vững, trường tồn của người dân Tây Nguyên, tượng trưng cho tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất và khí thế chiến thắng của họ trong công cuộc chống Mĩ cứu nước của cả dân tộc. Rừng xà nu đã trở thành một hình tượng mang vẻ đẹp sử thi hào hùng, tráng lệ của truyện, đã tạo ra sức cuốn hút, mời gọi người đọc đến với tác phẩm.

c. Hình ảnh những ngọn đồi, cánh rừng xà nu trải ra hút tầm mắt, chạy tít tắp đến tận chân trời luôn trở đi trở lại trong tác phẩm có tác dụng nhấn mạnh thêm hình tượng biểu trưng của truyện, gây ấn tượng trong người đọc và tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa cây xà nu với các thế hệ dân làng Xô Man chống Mĩ. (Trong truyện tác giả đã nhắc đến cây xà nu tới 20 lần bằng những câu văn đẹp).

Phân Tích Hình Tượng Cây Xà Nu Trong Truyện Ngắn Rừng Xà Nu Của Nguyễn Trung Thành. Lí Giải Việc Đặt Tên Và Nêu Ra Ý Nghĩa Biểu Tượng Của Tên Truyện Rừng Xà Nu

Văn học viết về đề tài miền núi đã đem đến cho văn học Việt Nam hiện đại một màu sắc riêng, một màu sắc đậm đà chất dân tộc. Những tác phẩm viết về đề tài miền núi đã nhận được những giải thưởng cao về văn học. Nhớ lại những giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955, cả hai tác phẩm được trao giải nhất lại đều viết về đề tài miền núi. Đó là Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài giải Nhất của truyện kí; và Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc giải Nhất về tiểu thuyết. Tiếp theo Đất nước đứng lên, mười năm sau Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) lại thành công xuất sắc trong một tác phẩm viết về đề tài miền núi đó là truyện ngắn Rừng xà nu. Truyện ngắn này đã được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965.

Rừng xà nu là một truyện ngắn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi. Tính chất sử thi thể hiện rõ ngay từ hình tượng cây xà nu.

Cây xà nu là hình tượng trung tâm xuyên suốt tác phẩm góp phần thể hiện tư tưởng, chủ để của tác phẩm. Mở đầu và kết thúc tác phẩm đều là hình tượng cây xà nu. Hàng vạn cây xà nu, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những cây xà nu nối tiếp nhau đến chân trời. Một kết cấu đầu cuối tương ứng lấy hình ảnh xà nu là trung tâm đã tạo nên một bối cảnh sử thi làm nền cho cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc đồng khởi của dân làng Xô Man.

Trong toàn bộ thiên truyện, xà nu còn được nhắc đi nhắc lại không dưới hai mươi lần từ những góc độ khác nhau. Có khi cây xà nu hiện ra từ trong kỉ niệm. Có khi hiện lên từ hiện tại lúc thì rừng xà nu, đồi xà nu, lúc thì thân xà nu, cành xà nu, vỏ xà nu, lá xà nu, lửa xà nu, khói xà nu…

Điều đáng lưu ý là xà nu không được miêu tả từ góc độ sinh vật học mà được cảm nhận trong sự gắn bó với con người, trở thành biểu tuợng cho con người.

Trong văn chương nghệ thuật đã từng xuất hiện thủ pháp lấy cây, hoa làm biểu tượng cho con người. Cây tre tượng trưng cho người dân Việt Nam, cũng như cây bạch dương tượng trưng cho người dân Nga. Nếu ở Việt Nam cây đa cây đề là biểu tượng cho người cao tuổi thì ở Nga đó là cây sồi già. Cây Kơnia đối với người Tây Nguyên cũng là biểu tượng cho người Tây Nguyên, lòng chung thuỷ lại đến với cây xà nu và gửi gắm ở hình tượng này những cảm xúc mới về cuộc sống, vẻ đẹp của, người Tây Nguyên trong kháng chiến.

Cây xà nu biểu tượng cho sức sống kiên cường, bất khuất và những phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên.

Để hình tượng cây xà nu trở thành biểu tượng cho con người thì giữa cây và người phải có sự tương đồng phẩm chất, cảnh ngộ giữa cây và người phải có sự gắn bó quen thuộc.

Xà nu là loại cây họ thông, có sức sống dẻo dai, mãnh liệt, sinh sôi nảy nở rất nhanh. Xà nu lại gắn bó thân thiết đối với người dân Xô Man, người dân Tây Nguyên. Gỗ xà nu, khói xà nu làm bảng đen để anh Quyết dạy cái chữ cho Tnú và Mai. Khói xà nu đen nhẻm trên thân hình những đứa trẻ làng Xô Man. Lửa xà nu có trong bếp mỗi gia đình, có trong bếp nhà ưng. Lửa xà nu soi rõ xác mười tên lính ác ôn nằm quanh đống lửa trước nhà ưng, người dân Xô Man sinh ra và lớn lên dưới bóng cây xà nu. Chính sự tương đồng và những gắn bó mật thiết này đã làm cho cây xà nu trở thành biểu tượng cho người dân Tây Nguyên.

Để cây xà nu trở thành biểu tượng cho con người, nhà văn đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật nhân cách hoá xuyên suốt toàn bộ thiên truyện này, thân xà nu thành thân hình xà nu, nhựa xà nu như những cục máu lớn, rừng xà nu ưỡn những tấm ngực lớn ra che chở cho làng.

Trước hết hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn là chứng nhân cho tội ác của quân thù. Mở đầu tác phẩm, người đọc bắt gặp hàng trăm, hàng ngàn cây xà nu bị những mảnh đạn của giặc giày xéo, “không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”. Rừng xà nu đang ở trong tầm đại bác của giặc và hàng ngày, hàng giờ đang bị lửa đạn của giặc huỷ diệt, ở đây, nhà văn không dựng lại hết những tội ác của quân giặc đối với dân làng Xô Man bởi hình tượng cây xà nu đã nói lên tất cả. Rừng xà nu cũng như dân làng đều cùng chung số phận đau thương dưới làn bom đạn và tội ác của kẻ thù.

Cây xà nu còn là biểu tượng cho sức sống bất diệt của Tây Nguyên. Nhũng cây xà nu cổ thụ, gió bão, bom đạn cũng không quật ngã nổi là biểu tượng cho người già – những người như cụ Mất. Những cây xà nu cổ thụ đã có từ bao đời trên mảnh đất Tây Nguyên, là chỗ dựa cho cả rừng xà nu. Hình tượng này gợi ta liên tưởng đến những người như cụ Mốt. Người già bản này là cái gạch nối giữa hai lịch sử: thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Cụ Mết đã từng trải qua bao thử thách, nhưng vẫn trụ vững trên mảnh đất Tây Nguyên. Cụ Mết cũng là người giàu kinh nghiệm, là chỗ dựa cho cả buôn làng. Khi miêu tả cụ Mết, nhà văn luôn so sánh với hình tượng xà nu, bàn tay chắc nịch của cụ sần sùi như vỏ cây xà nu, lồng ngực đỏ au, giọng cụ ồ vang

như nghe tiếng âm vọng của rừng xà nu. Những cây xà nu đã trưởng thành là biểu tượng cho lớp người như Tnú, Mai, Dít. Những cây xà nu này khi bị thương nhựa ứa ra, đọng lại thành cục máu lớn nhưng những vết thương của chúng nhanh chóng lành trên thân thể cường tráng. Lưng Tnú khi bị giặc chém máu ứa ra bâm tím lại như nhựa xà nu nhưng chỉ mây ngày sau đã thành những vết sẹo. Những cây xà nu trưởng thành lớn lên trong bom đạn pháo của kẻ thù giống như Tnú, Mai, Dít. Những con người vạm vỡ, cường tráng mang trong mình sức sống của làng của đất rừng Tây Nguyên. Tuổi trẻ của họ đang được thử thách tôi luyện trong đấu tranh, vượt lên trên tất cả họ trụ vững như cây xà nu trong bom đạn. Họ như cánh chim đại bằng đã đủ lông mao, lông vũ đầy sức sống.

Những cây xà nu non mới mọc là biểu tượng cho lớp người như Heng. Những cây xà nu này tuy mới mọc mà lá đã xanh rờn. Ngọn nhọn hoặt hình mũi tên, mũi lê lao thẳng lên bầu trời. Những đứa trẻ như Heng tuy còn nhỏ tuổi mà đã linh hoạt, cứng cỏi, gan góc đã tạc mình theo hình ảnh thế hệ cha anh.

Lửa cây xà nu ứng chiếu với ba thế hệ và cả rừng xà nu trở thành biểu tượng cho sức sông Tây Nguyên bất diệt. Nếu dòng nhựa xà nu truyền một cách nguyên vẹn từ những cây cổ thụ sang những cây non nớt mới mọc thì dòng máu Tây Nguyên bất khuất cũng truyền một cách nguyên vẹn từ lồng ngực thế hệ già sang trái tim thế hệ trẻ. Nếu cạnh một cây xà nu gục ngã vì đạn pháo thì đã có bốn, năm cây khác mọc lên với sức Sống mãnh liệt, thì người dân làng Xô Man thế hệ nối tiếp kiên cường đứng lên chiến đấu. Anh Quyết hi sinh đã có Tnú và Mai bước tiếp. Mai ngã xuống đã có Dít đứng vào vị trí. Dít là hậu thân của Mai từ dáng vẻ đến tâm hồn. Khi Tnú lên đường tham gia lực lượng vũ trang thì đã có Dít, Heng đảm nhận công việc của chính mình, của buôn làng. Bên cạnh những người già từng trải như cụ Mết có thế hệ trẻ Tây Nguyên giàu nhiệt tình như Dít, Heng. Điều này đã đưa nhà văn tới khẳng định chân lí sức sống Tây Nguyên là bất diệt như sức Sống của cây xà nu vậy.

Cây xà nu biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên. Xà nu biểu tượng cho khát vọng tự do. Đã là cây xà nu thì cây nào cũng ham ánh sáng, đã là cây xà nu thì cây nào cũng có dáng cây thẳng ngạo nghễ, ngay cả leo lên bầu trời để đón lấy ánh sáng. Người dân Tây Nguyên cũng mang dòng máu tự do quật khởi. Họ cũng như bao người dân Việt Nam “tuốt gươm không chịu sống quỳ”.

Trong cuộc sống cũng như trong đấu tranh, người Tây Nguyên luôn có tình thương yêu đoàn kết, phẩm chất này được gợi lên từ hình tượng xà nu. Những cây xà nu cổ thụ thành chỗ dựa cho cả rừng xà nu. Những cây xà nu trưởng thành che chở cho những cây non mới mọc dựa vào những cây trưởng thành già lớn lèn tạo nên thành lũy vững Chắc.

Xà nu còn biểu tượng cho sức mạnh của nhân dân Tây Nguyên. Cụ Mết đã từng nói với con cháu: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Lửa xà nu thắp sáng cho dân làng Xô Man, mài dao, mài rựa chuẩn bị lực lượng chiến đấu và khi cuộc đấu tranh khởi nghĩa nổ ra thì sức mạnh của người dân Strá, lòng căm hờn của người dân Tây Nguyên được miêu tả như sự nổi giận của rừng xà nu: “suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”.

Tất cả những điều đó đã lí giải đúng việc đặt tên và nêu ra ý nghĩa biểu tượng của tên truyện Rừng xà nu.

Ra đời vào những năm 1965 trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta, tác phẩm thẫm đượm không khí, tinh thần thời đại. Dường như qua mỗi trang văn ta được chiêm ngưỡng mỗi trang đời, có cái lay động của những tâm hồn. Những tấm lòng nhiệt huyết kiên cường, có cái chân xác trong suy nghĩ, những triết lí chiêm nghiệm sâu sắc, có cái linh thiêng trong hơi thở dân tộc hào hùng.

Với tiêu đề vừa lạ vừa quen, Rừng xà nu dường như đã bao chứa được cả khí thiêng của đất rừng Tây Nguyên, cái nồng nàn linh diệu thanh âm cuộc sống. Với một nhà văn, nhất là một nhà văn có tài, việc đặt tên cho tác phẩm – đứa con tinh thần của mình là một việc làm hết sức quan trọng, ý nghĩa. Bởi ở đó dồn chứa tình cảm, cảm xúc của nhà văn, ở đó ghi dấu linh hồn tác phẩm.

Nói như thế để thấy rằng trong ba thanh âm khoẻ khoắn, giản dị “rừng xà nu” kia nó hoàn toàn chẳng phải ngẫu nhiên hay vô tình trong tác giả.

Với ý định ban đầu viết về đồng bằng nhưng do mới gắn bó sâu nặng với Tây Nguyên, do sức ám ảnh nghệ thuât về mảnh đất hoang dại đầy bí ẩn mà rất đỗi thân thương, ấm áp nên khi tâm hồn tác giả bật dậy hình tượng rừng xà nu, tác phẩm đã ra đời. Câu chuyện về làng Xô Man đánh Mĩ, về những tấm gương cuộc đời rạng đẹp sáng ngời được ánh lên từ bức tranh xà nu với vẻ đẹp tràn đầy sức sông. Tác phẩm nếu đặt tên Làng Xô Man hay lấy tên nhân vật chính Tnú thì có thể sẽ cụ thể hơn, rõ nét hơn nhưng nó sẽ mất đi sự khái quát, sức gợi mở – điều cốt yếu với các tác phẩm văn học vì thể với cách đặt Rừng xà nu nó không chỉ ghi nhện tâm hồn, tình cảm tác giả, mà hơn cả, nó còn bao chứa toàn bộ vẻ đẹp tác phẩm, vẻ đẹp của một thế giới sinh động ngân vang, lồng căng sự sống.

Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Tính chất sử thi trong truyện ngắn này thể hiện qua bút pháp nghệ thuật miêu tả cây xà nu. Cây xà nu và người dân Tây Nguyên tuy hai mà một, hòa vào nhau tạo nên sức sống bất diệt. Với hình tượng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã đem đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu mà vẫn hoà hợp, đồng tỉnh trong cái nhìn thời đại, hình tượng vẫn gần gũi, quen thuộc trong cảm quan cách mạng lành mạnh tươi sáng. Hình tượng rừng xà nu cũng là biểu tượng cho nhũng con người, những cuộc đời dân làng Xô Man anh dũng kiên cường. Nhà văn đã làm tỏa sáng cả một thời đại: ca ngợi sức sống bất diệt trong con người đồng thời chỉ ra quy luật phát ưiên của cách mạng Việt Nam khi kẻ thù đã cầm súng thì mình phải câm giáo.

Rừng xà nu mang một vẻ đẹp kì vĩ. Mở đầu và kết thúc đều là hình ảnh xà nu với sức sống bất diệt, trải rộng trong không gian, chạy tít tắp đến chân trời. Đây là một bối cảnh mang vẻ đẹp sử thi. Những cây xà nu có sức sống kì diệu. Đó là sức sống huyền thoại mang tính chất sử thi. Rừng xà nu đã trở thành một biểu tượng, một bản anh hùng ca bất diệt trong con người Xô Man, trong Tây Nguyên và trong cả dân tộc Việt Nam.

Văn học viết về đề tài miền núi đã đem đến cho văn học Việt Nam hiện đại một màu sắc riêng, một màu sắc đậm đà chất dân tộc. Những tác phẩm viết về đề tài miền núi đã nhận được những giải thưởng cao về văn học. Nhớ lại những giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955, cả hai tác phẩm được trao giải nhất lại đều viết về đề tài miền núi. Đó là Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài giải Nhất của truyện kí; và Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc giải Nhất về tiểu thuyết. Tiếp theo Đất nước đứng lên, mười năm sau Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) lại thành công xuất sắc trong một tác phẩm viết về đề tài miền núi đó là truyện ngắn Rừng xà nu. Truyện ngắn này đã được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965.

Rừng xà nu là một truyện ngắn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi. Tính chất sử thi thể hiện rõ ngay từ hình tượng cây xà nu.

Cây xà nu là hình tượng trung tâm xuyên suốt tác phẩm góp phần thể hiện tư tưởng, chủ để của tác phẩm. Mở đầu và kết thúc tác phẩm đều là hình tượng cây xà nu. Hàng vạn cây xà nu, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những cây xà nu nối tiếp nhau đến chân trời. Một kết cấu đầu cuối tương ứng lấy hình ảnh xà nu là trung tâm đã tạo nên một bối cảnh sử thi làm nền cho cuộc đời bi tráng của Tnú và cuộc đồng khởi của dân làng Xô Man.

Trong toàn bộ thiên truyện, xà nu còn được nhắc đi nhắc lại không dưới hai mươi lần từ những góc độ khác nhau. Có khi cây xà nu hiện ra từ trong kỉ niệm. Có khi hiện lên từ hiện tại lúc thì rừng xà nu, đồi xà nu, lúc thì thân xà nu, cành xà nu, vỏ xà nu, lá xà nu, lửa xà nu, khói xà nu…

Điều đáng lưu ý là xà nu không được miêu tả từ góc độ sinh vật học mà được cảm nhận trong sự gắn bó với con người, trở thành biểu tuợng cho con người.

Trong văn chương nghệ thuật đã từng xuất hiện thủ pháp lấy cây, hoa làm biểu tượng cho con người. Cây tre tượng trưng cho người dân Việt Nam, cũng như cây bạch dương tượng trưng cho người dân Nga. Nếu ở Việt Nam cây đa cây đề là biểu tượng cho người cao tuổi thì ở Nga đó là cây sồi già. Cây Kơnia đối với người Tây Nguyên cũng là biểu tượng cho người Tây Nguyên, lòng chung thuỷ lại đến với cây xà nu và gửi gắm ở hình tượng này những cảm xúc mới về cuộc sống, vẻ đẹp của, người Tây Nguyên trong kháng chiến.

Cây xà nu biểu tượng cho sức sống kiên cường, bất khuất và những phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên.

Để hình tượng cây xà nu trở thành biểu tượng cho con người thì giữa cây và người phải có sự tương đồng phẩm chất, cảnh ngộ giữa cây và người phải có sự gắn bó quen thuộc.

Xà nu là loại cây họ thông, có sức sống dẻo dai, mãnh liệt, sinh sôi nảy nở rất nhanh. Xà nu lại gắn bó thân thiết đối với người dân Xô Man, người dân Tây Nguyên. Gỗ xà nu, khói xà nu làm bảng đen để anh Quyết dạy cái chữ cho Tnú và Mai. Khói xà nu đen nhẻm trên thân hình những đứa trẻ làng Xô Man. Lửa xà nu có trong bếp mỗi gia đình, có trong bếp nhà ưng. Lửa xà nu soi rõ xác mười tên lính ác ôn nằm quanh đống lửa trước nhà ưng, người dân Xô Man sinh ra và lớn lên dưới bóng cây xà nu. Chính sự tương đồng và những gắn bó mật thiết này đã làm cho cây xà nu trở thành biểu tượng cho người dân Tây Nguyên.

Để cây xà nu trở thành biểu tượng cho con người, nhà văn đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật nhân cách hoá xuyên suốt toàn bộ thiên truyện này, thân xà nu thành thân hình xà nu, nhựa xà nu như những cục máu lớn, rừng xà nu ưỡn những tấm ngực lớn ra che chở cho làng.

Trước hết hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn là chứng nhân cho tội ác của quân thù. Mở đầu tác phẩm, người đọc bắt gặp hàng trăm, hàng ngàn cây xà nu bị những mảnh đạn của giặc giày xéo, “không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”. Rừng xà nu đang ở trong tầm đại bác của giặc và hàng ngày, hàng giờ đang bị lửa đạn của giặc huỷ diệt, ở đây, nhà văn không dựng lại hết những tội ác của quân giặc đối với dân làng Xô Man bởi hình tượng cây xà nu đã nói lên tất cả. Rừng xà nu cũng như dân làng đều cùng chung số phận đau thương dưới làn bom đạn và tội ác của kẻ thù.

Cây xà nu còn là biểu tượng cho sức sống bất diệt của Tây Nguyên. Nhũng cây xà nu cổ thụ, gió bão, bom đạn cũng không quật ngã nổi là biểu tượng cho người già – những người như cụ Mất. Những cây xà nu cổ thụ đã có từ bao đời trên mảnh đất Tây Nguyên, là chỗ dựa cho cả rừng xà nu. Hình tượng này gợi ta liên tưởng đến những người như cụ Mốt. Người già bản này là cái gạch nối giữa hai lịch sử: thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Cụ Mết đã từng trải qua bao thử thách, nhưng vẫn trụ vững trên mảnh đất Tây Nguyên. Cụ Mết cũng là người giàu kinh nghiệm, là chỗ dựa cho cả buôn làng. Khi miêu tả cụ Mết, nhà văn luôn so sánh với hình tượng xà nu, bàn tay chắc nịch của cụ sần sùi như vỏ cây xà nu, lồng ngực đỏ au, giọng cụ ồ vang

như nghe tiếng âm vọng của rừng xà nu. Những cây xà nu đã trưởng thành là biểu tượng cho lớp người như Tnú, Mai, Dít. Những cây xà nu này khi bị thương nhựa ứa ra, đọng lại thành cục máu lớn nhưng những vết thương của chúng nhanh chóng lành trên thân thể cường tráng. Lưng Tnú khi bị giặc chém máu ứa ra bâm tím lại như nhựa xà nu nhưng chỉ mây ngày sau đã thành những vết sẹo. Những cây xà nu trưởng thành lớn lên trong bom đạn pháo của kẻ thù giống như Tnú, Mai, Dít. Những con người vạm vỡ, cường tráng mang trong mình sức sống của làng của đất rừng Tây Nguyên. Tuổi trẻ của họ đang được thử thách tôi luyện trong đấu tranh, vượt lên trên tất cả họ trụ vững như cây xà nu trong bom đạn. Họ như cánh chim đại bằng đã đủ lông mao, lông vũ đầy sức sống.

Những cây xà nu non mới mọc là biểu tượng cho lớp người như Heng. Những cây xà nu này tuy mới mọc mà lá đã xanh rờn. Ngọn nhọn hoặt hình mũi tên, mũi lê lao thẳng lên bầu trời. Những đứa trẻ như Heng tuy còn nhỏ tuổi mà đã linh hoạt, cứng cỏi, gan góc đã tạc mình theo hình ảnh thế hệ cha anh.

Lửa cây xà nu ứng chiếu với ba thế hệ và cả rừng xà nu trở thành biểu tượng cho sức sông Tây Nguyên bất diệt. Nếu dòng nhựa xà nu truyền một cách nguyên vẹn từ những cây cổ thụ sang những cây non nớt mới mọc thì dòng máu Tây Nguyên bất khuất cũng truyền một cách nguyên vẹn từ lồng ngực thế hệ già sang trái tim thế hệ trẻ. Nếu cạnh một cây xà nu gục ngã vì đạn pháo thì đã có bốn, năm cây khác mọc lên với sức Sống mãnh liệt, thì người dân làng Xô Man thế hệ nối tiếp kiên cường đứng lên chiến đấu. Anh Quyết hi sinh đã có Tnú và Mai bước tiếp. Mai ngã xuống đã có Dít đứng vào vị trí. Dít là hậu thân của Mai từ dáng vẻ đến tâm hồn. Khi Tnú lên đường tham gia lực lượng vũ trang thì đã có Dít, Heng đảm nhận công việc của chính mình, của buôn làng. Bên cạnh những người già từng trải như cụ Mết có thế hệ trẻ Tây Nguyên giàu nhiệt tình như Dít, Heng. Điều này đã đưa nhà văn tới khẳng định chân lí sức sống Tây Nguyên là bất diệt như sức Sống của cây xà nu vậy.

Cây xà nu biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của người dân Tây Nguyên. Xà nu biểu tượng cho khát vọng tự do. Đã là cây xà nu thì cây nào cũng ham ánh sáng, đã là cây xà nu thì cây nào cũng có dáng cây thẳng ngạo nghễ, ngay cả leo lên bầu trời để đón lấy ánh sáng. Người dân Tây Nguyên cũng mang dòng máu tự do quật khởi. Họ cũng như bao người dân Việt Nam “tuốt gươm không chịu sống quỳ”.

Trong cuộc sống cũng như trong đấu tranh, người Tây Nguyên luôn có tình thương yêu đoàn kết, phẩm chất này được gợi lên từ hình tượng xà nu. Những cây xà nu cổ thụ thành chỗ dựa cho cả rừng xà nu. Những cây xà nu trưởng thành che chở cho những cây non mới mọc dựa vào những cây trưởng thành già lớn lèn tạo nên thành lũy vững Chắc.

Xà nu còn biểu tượng cho sức mạnh của nhân dân Tây Nguyên. Cụ Mết đã từng nói với con cháu: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Lửa xà nu thắp sáng cho dân làng Xô Man, mài dao, mài rựa chuẩn bị lực lượng chiến đấu và khi cuộc đấu tranh khởi nghĩa nổ ra thì sức mạnh của người dân Strá, lòng căm hờn của người dân Tây Nguyên được miêu tả như sự nổi giận của rừng xà nu: “suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”.

Tất cả những điều đó đã lí giải đúng việc đặt tên và nêu ra ý nghĩa biểu tượng của tên truyện Rừng xà nu.

Ra đời vào những năm 1965 trong những ngày bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta, tác phẩm thẫm đượm không khí, tinh thần thời đại. Dường như qua mỗi trang văn ta được chiêm ngưỡng mỗi trang đời, có cái lay động của những tâm hồn. Những tấm lòng nhiệt huyết kiên cường, có cái chân xác trong suy nghĩ, những triết lí chiêm nghiệm sâu sắc, có cái linh thiêng trong hơi thở dân tộc hào hùng.

Với tiêu đề vừa lạ vừa quen, Rừng xà nu dường như đã bao chứa được cả khí thiêng của đất rừng Tây Nguyên, cái nồng nàn linh diệu thanh âm cuộc sống. Với một nhà văn, nhất là một nhà văn có tài, việc đặt tên cho tác phẩm – đứa con tinh thần của mình là một việc làm hết sức quan trọng, ý nghĩa. Bởi ở đó dồn chứa tình cảm, cảm xúc của nhà văn, ở đó ghi dấu linh hồn tác phẩm.

Nói như thế để thấy rằng trong ba thanh âm khoẻ khoắn, giản dị “rừng xà nu” kia nó hoàn toàn chẳng phải ngẫu nhiên hay vô tình trong tác giả.

Với ý định ban đầu viết về đồng bằng nhưng do mới gắn bó sâu nặng với Tây Nguyên, do sức ám ảnh nghệ thuât về mảnh đất hoang dại đầy bí ẩn mà rất đỗi thân thương, ấm áp nên khi tâm hồn tác giả bật dậy hình tượng rừng xà nu, tác phẩm đã ra đời. Câu chuyện về làng Xô Man đánh Mĩ, về những tấm gương cuộc đời rạng đẹp sáng ngời được ánh lên từ bức tranh xà nu với vẻ đẹp tràn đầy sức sông. Tác phẩm nếu đặt tên Làng Xô Man hay lấy tên nhân vật chính Tnú thì có thể sẽ cụ thể hơn, rõ nét hơn nhưng nó sẽ mất đi sự khái quát, sức gợi mở – điều cốt yếu với các tác phẩm văn học vì thể với cách đặt Rừng xà nu nó không chỉ ghi nhện tâm hồn, tình cảm tác giả, mà hơn cả, nó còn bao chứa toàn bộ vẻ đẹp tác phẩm, vẻ đẹp của một thế giới sinh động ngân vang, lồng căng sự sống.

Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Tính chất sử thi trong truyện ngắn này thể hiện qua bút pháp nghệ thuật miêu tả cây xà nu. Cây xà nu và người dân Tây Nguyên tuy hai mà một, hòa vào nhau tạo nên sức sống bất diệt. Với hình tượng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã đem đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu mà vẫn hoà hợp, đồng tỉnh trong cái nhìn thời đại, hình tượng vẫn gần gũi, quen thuộc trong cảm quan cách mạng lành mạnh tươi sáng. Hình tượng rừng xà nu cũng là biểu tượng cho nhũng con người, những cuộc đời dân làng Xô Man anh dũng kiên cường. Nhà văn đã làm tỏa sáng cả một thời đại: ca ngợi sức sống bất diệt trong con người đồng thời chỉ ra quy luật phát ưiên của cách mạng Việt Nam khi kẻ thù đã cầm súng thì mình phải câm giáo.

Rừng xà nu mang một vẻ đẹp kì vĩ. Mở đầu và kết thúc đều là hình ảnh xà nu với sức sống bất diệt, trải rộng trong không gian, chạy tít tắp đến chân trời. Đây là một bối cảnh mang vẻ đẹp sử thi. Những cây xà nu có sức sống kì diệu. Đó là sức sống huyền thoại mang tính chất sử thi. Rừng xà nu đã trở thành một biểu tượng, một bản anh hùng ca bất diệt trong con người Xô Man, trong Tây Nguyên và trong cả dân tộc Việt Nam.

Tóm Tắt Truyện Ngắn Rừng Xà Nu Của Nhà Văn Nguyễn Trung Thành

Đề bài: Tóm tắt truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành

Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên- làng Xô Man- nằm giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận những trận đại bác của đồn giặc.

Chuyện chính thức bắt đầu bằng việc Tnú trở về thăm làng sau ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân. Thằng bé Heng dẫn đường cho Tnú vì đường vào làng nay đã bố phòng nghiêm ngặt: hầm chông, hố chông, dàn thò chằng chịt…. Đêm đó, Tnú ăn cơm và ở lại nhà cụ Mết. Cả làng tụ họp, Dít kiểm tra giấy phép xong, cụ Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh đồng khởi của làng, gắn bó sâu sắc với cuộc đời Tnú.

Tóm tắt truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành

Hồi ấy, Mỹ- Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết). Tuy còn nhỏ tuổi, Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết, rồi được anh Quyết dạy chữ.

Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện, Tnú bị địch phục bắt, bị tra tấn nhưng anh nhất quyết không khai báo. Ở tù ba năm, Tnú vượt ngục trở về làng thay anh Quyết lãnh đạo buôn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và kết hôn cùng Mai.

Tin làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú, cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú, bọn giặc bắt Mai với đứa con nhỏ chưa đầy tháng của hai người đánh đập dã man. Từ vị trí ẩn nấp, Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ, Tnú nhảy xổ vào cứu vợ con, rồi bị chúng bắt, Mai và đứa con chết. Bọn giặc tẩm nhựa Xà nu đốt mười đầu ngón tay anh để khủng bố tinh thần dân làng.

Tnú kiên cường chịu đựng quyết không kêu la. Có tiếng động chung quanh, Tnú thét lên một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn đã bị cụ Mết và thanh niên diệt gọn. Làng Xô Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm.

Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiến anh lên đường. Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con nước lớn.

Từ khóa tìm kiếm

tóm tắt rung xa nu

tóm tắt truyện rừng xa nu

tóm tắt tác phẩm rừng xa nu

tom tat van ban rung xa nu

tom tat bai rung xa nu

tom tat truyen ngan rưng xa nu

tom tat rung xa nu lop 12

Phân Tích Ý Nghĩa Và Giá Trị Truyện Ngắn Rừng Xà Nu Của Nguyễn Trung Thành

Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Vì gắn bó với chiến trường Tây Nguyên nên ông hiểu biết sâu sắc và viết rất thành công về thiên nhiên và con người ở vùng đất này. Rừng xà nu là tác phẩm nổi bậc nhất của ông trong giai đoạn kháng Mĩ cứu nước.

Tác phẩm được viết năm 1965, in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Thời gian này Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc, chiến trường Tây Nguyên cũng đang hồi sôi động. Cả nước đang trong không khí sục sôi đánh Mĩ.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu bị tàn phá “hàng vạn cây không cây nào không bị thương” dù nằm trong tầm đại bác của giặc, nhưng vẫn có sức sống mảnh liệt, bền bỉ. Nhân vật chính trong truyện chính là Tnú. Sau ba năm đi bộ giải phóng, Tnú nghỉ phép về thăm làng. Đêm đó dân làng tụ họp mừng anh về và lắng nghe cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cùng trang sử chiến đấu của dân làng Xô man.

Tnú vốn là đứa trẻ mồ côi cha mẹ được dân làng nuôi dưỡng, đùm bọc. Tuy nhỏ nhưng Tnú đã biết nuôi giấu cán bộ, làm giao liên, đi liên lạc cho anh Quyết, được anh dạy chữ, dìu dắt. Bị giặc bắt phải đi tù, Tnú vượt ngục trở về thì anh Quyết đã hi sinh. Tnú thay anh Quyết lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đánh giặc. Tin làng Xô-man mài giáo, mài rựa đến tay bọn giặc, chúng vây làng quyết bắt cho được A, A cùng nhiều thanh niên thoát được ra rừng, không tìm được A giặc bắt vợ con anh ra tra tấn. Tận mắt chứng kiến cảnh đau đớn ấy, A xông ra cứu vợ con, nhưng mẹ con Mai vẫn bị chết còn anh thì bị giặc bắt và tra tấn dã man.Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 đầu ngón tay nhưng anh không hề kêu than. Sự tàn bạo cảu chúng đã làm cho lòng căm thù giặc lên đến cao độ, tất cả dân làng dưới sự chỉ huy của cụ Mết đã xông lên tiêu diệt bọn giặc cứu A. Tuy các ngón tay chỉ còn lại hai đốt, A vẫn gia nhập bộ đội để giết giặc.

Sáng hôm sau, A lại ra đi, cụ Mết và Dít tiễn anh lên đường. Cả ba người nhìn ra xa và thấy “rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”.

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm: Rừng xà nu

Nguyễn Trung Thành đã thể hiện toàn bộ tư tưởng của tác phẩm qua nhan đề Rừng xà nu. Nhan đề “Rừng xà nu” là một sang tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Đây là hình ảnh trung tâm vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng độc đáo. Về nghĩa tả thực, Rừng xà nu là hình ảnh của thiên nhiên Tây Nguyên, tuy bị tàn phá dù trong chiến tranh nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt. Về nghĩa biểu tượng, Rừng xà nu là biểu tượng cho con người (dân làng Xô Man nói riêng, đổng bào Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam nói chung) trong công cuộc đấu tranh chống Mĩ với số phận đau thương cùng sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hùng.

Hình tượng cây xà nu:

Cây xà nu, rừng xà nu là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Nó xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên, xuyên xuốt qua tác phẩm rồi cuối cùng đóng khép lại câu chuyện.

Xà nu là loại cây họ thông nhựa và gỗ đều rất quí, mọc nhiều ở Kom tum _là thiên nhiên mênh mông, hung vĩ ở Tây Nguyên. Ở trong tác phẩm, rừng xà nu là không gian sống của người Xô Man Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng: nó luôn có mặt trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, tham dự vào những sự kiện trọng đại của buôn làng, và thấm sâu vào nếp suy nghĩ, cảm xúc của họ. Chính cụ Mết từng tự hào ” Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”.

Hình tượng rừng xà nu vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên. Rừng bị bom Mỹ tàn phá nặng nề là biểu tượng cho những đau thương mà nhân dân Tây Nguyên phải gánh chịu.

Nằm trong tầm đại bác của giặc, nên cả khu rừng xà nu hang vạn cây không có cây nào không bị thương. Nỗi đau hiện lên với nhiều hình dạng. Có những cây con bị đại bác chặt đứt làm đôi, “nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành lại được, cứ loét mãi, năm mươi hôm thì cây chết”. Có những cây đã trưởng thành bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, nhựa ứa ra tràn trề, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyền thành từng cục máu lớn.

Cánh rừng xà nu bị bắn phá và thương tích mà rừng xà nu phản cảnh những đau thương của một thời mà cả dân tộc ta đã phải gánh chịu. Hình ảnh cánh rừng xà nu bị bắn phá gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào Xôman đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. Không bữa nào nó không đi lùng. Không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng…Ngọn roi của nó không từ một ai, tiếng kêu khóc dậy cả làng. Cảnh chúng đàn áp, giết hại dân làng dã man. “Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng”, “Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, tra tấn me con Mai đến chết…

Sức sống bất diệt của rừng xà nu là biểu tượng cho sự kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên. Cây xà nu sinh sôi rất khỏe “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên”, “đại bác bác không giết nổi chúng”, với sức sống mãnh liệt, chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã. Cứ thế, những cánh rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”.

Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu giúp ta liên tưởng đến sự kiên cường bất khuất của nhân dân Xô Man. Thế hệ này tiếp bước thế hệ khác cùng đoàn kết bên nhau đứng lên kháng chiến chống kẻ thù tàn bạo. Anh Quyết hy sinh đã có Tnú và Mai. Mai ngã xuống thì Dit lớn lên tiếp bước, bé Heng cũng sẵn sàng tiếp bước thế hệ đàn anh..)

Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời luôn hướng đến sự sống: “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng” gợi lên hình ảnh người dân Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chun với khát vọng tự do, phóng khoáng dù chịu nhiều đau thương mất mát nhưng vẫn một lòng hướng về Đảng, về Cách mạng với niềm tin tuyết đối: “Đảng còn thì núi nước này còn”.

Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. hình tượng cây xà nu được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

Vẻ đẹp rừng xà nu tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên và của tâm hồn người dân Tây Nguyên:

Cánh rừng xà nu được miêu tả có sự hòa hợp giữa sắc màu, hình khối, mùi hương, ánh sáng…Vẻ đẹp lạ lùng, gây ấn tượng khó quên trong lòng người đọc: “ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra…thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt…thứ ánh nắng…rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng”.

Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ. Vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên cũng chính là vẻ đẹp trong tâm hồn người làng Xô Man. Họ mang trong mình tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do, yêu Tổ quốc, một lòng đi theo Đảng, theo cách mạng, kiên cường bất khuất.

Khi miêu tả rừng xà nu, tác giả nhiều lần sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tạo nên một sự hòa nhập tương ứng giữa con người và thiên nhiên. Thiên truyện được mở đầu và kết thúc bởi hình ảnh những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời đã gợi vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng Tây Nguyên, là biểu tượng cho ý chí kiên cường bất khuất, sự trường tốn bất diệt của các thế hệ cách mạng Tây Nguyên nói riêng và co cả miền Nam Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Hình tượng nhân vật Tnú

Rừng xà nu là chuyện của một đời người được kể trong một đêm, là chuyện về cuộc đời đau thương nhưng anh dũng của nhân vật Tnú được cụ Mết kể cho dân làng nghe trong đêm Tnú về thăm làng nhằm giáo dục tinh thần yêu nước truyền thống anh hùng của dân làng.

Tnú người dân tộc Strá. Anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng Xô Man, đặc biệt là cụ Mết. Tnú đến với cách mạng từ rất sớm, từ những ngàu gian khổ, ác liệt nhất. Ngay từ nhỏ, anh đã có điều kiện được học chữ, nuôi ước mơ lớn lên theo anh Quyết làm cán bộ.

Tính cách của Tnú được khắc họa qua hành động và lời nói hết sức đậm nét. Anh là một người gan góc, dũng cảm, mưu trí. Lúc nhỏ chứng kiến bà Nhan, anh Xút và nhiều người khác bị giặc giết vì nuôi giấu cán bộ nhưng Tnú vẫn không sợ. Anh vẫn tiếp tục tiếp tế lương thực cho cán bộ và làm liên lạc cho anh Quyết.

Tnú cũng rất thông minh và nhanh trí. Khi liên lạc “không bao giờ nó đi đường mòn”, bởi anh biết giặc thường hay mai phục những chỗ ấy. Khi qua sông, anh không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác thác mạnh mà bơi ngang. Có lần bị giặc phục kích bắt được, A nhanh trí “nuốt luôn cái thư”.

Tnú tuyệt đối trung thành với cách mạng. Học chữ thua Mai, “nó cầm hòn đá, tự đập vào đầu, cháy máu ròng ròng” không thèm học nữa. Thế nhưng nghe lời anh Quyết, Tnú đã cố gắng học tốt để lớn lên làm cán bộ cách mạng. Bị giặc bắt tra tấn, đánh đập dã man cậu bé Tnú vẫn không khai công sản ở đâu. Sau ba năm tù, Tnú vượt ngục trở về làng, vẫn không từ bỏ lí tưởng. Anh thay anh Quyết lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí một lòng theo Đảng đánh giặc.

Tnú kiên cường bất khuất có tính kỉ luật cao. Khi buôn làng bị càn quét, vợ con bị giặc giết chết dã man, còn anh thì bị kè thủ đốit mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu van, vẫn chịu đựng kiên cường. Mất vợ con, hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, thương tích cả thể xác lẫn tâm hồn, nhưng Tnú không gục ngã, vẫn tham gia lực lượng vũ trang quyết tâm tiêu diệt kẻ thù tàn ác. Nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên Tnú mời về thăm, nhưng chỉ ở nhà một đêm đúng quy định trong giấy phép.

Tnú là một người giàu tình yêu thương. Anh yêu thương và gắn bó với những cánh rừng xà nu với bản làng của người dân Strá mộc mạc thuần hậu.

Tnú yêu thương vợ con tha thiết: Khi chứng kiến giặc dùng thủ đoạn hèn hạ bắt mẹ con Mai tar tấn đánh đập dã man bằng gậy sắt, anh đau đớn đến tệ dại “bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”, “Ở chỗ hai con mắt anh bây giở là cục lửa lớn”. Không cầm lòng được, “A đã nhảy xổ vào giữa bọn lính” hai cánh tay như hai cánh lim chắc ôm chặt lấy mẹ con Mai, bảo vệ vợ con bất chấp nguy hiểm cho bản thân.

Tnú biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương và gia đình. Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt, bị đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương…

Trong câu chuyện kể về cuộc đời Tnú cho dân làng nghe, cụ Mết nhiều lần nhắc lại ý Tnú không cứu được vợ con như một điệp khúc day dứt, xót xa. Mục đích nhằm nhấn mạnh một hiện thực: Tnú chỉ với hai bàn tay trắng không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo nên anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân!

Từ đó khắc sâu chân lí “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nhấn mạnh điều này, cụ Mết muốn nhắc nhở con cháu một điều hệ trọng là để sự sống được trường tồn không cò cách nào khác hơn là phải cầm vũ khí chống lại và tiêu diệt kẻ thù tàn ác. Đây là một nhận thức sâu sắc được rút ra từ nỗi đau của bản thân Tnú, của buôn làng

Số phận Tnú gắn liền với số phận cộng đồng Xô Man, đi từ đau thương đến cầm vũ khí đứng lên quật khởi

Khi chưa cầm vũ khí:

Làng Xô Man bị giặc lùng sục, khủng bố. Chúng giết hại tra tấn dân làng dã man khắp nơi không bữa nào nó không đi lùng, súng và chó của nó sủa vang khắp rừng. Chúng đàn áp, giết hại dân làng dã man. Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng. Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng. Mẹ con Mau bị tra tấn đến chết. Tnú bị giặc đốt 10 đầu ngón tay bằng nhựa xà nu…

Khi đã cầm vũ khí:

Thằng Dục chết dưới lưỡi mác của cụ Mết, mười tên giặc chết dưới giáo mác của dân làng. Tnú được cứu sống. Lửa đẵ tắt trên mười đầu ngón tay anh. Bàn tay Tnú được hồi sinh. Tiếng cụ Mết như lời hiệu triệu của Đảng, của truyền thống bất khuất: “Đốt lửa lên…tất cả dân làng… mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác…” . Làng Xô Man ào ào sôi động, lửa đấu tranh ngùn ngụt cháy! Từ đó, làng thành làng kháng chiến một lòng theo Đảng đánh giặc, được no đủ, không còn sợ đói gạo, đói muối.

Tóm lại, hình tượng là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mỹ là phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân.

Ngoài Tnú, các nhân vật chính diện khác như cụ Mết trầm ngâm, lừng lững như cây cổ thụ, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống của dân tộc Tây Nguyên đến vẻ đẹp mảnh mai, hiền diệu nhưng đầy cứng rắn, kiên quyết của Dít như một hậu thân trự tiếp của Mai; bé Heng như cây xà nu mới lớn, tuy còn non trẻ nhưng đã cho người đọc thấy hình ảnh của cây xà nu vạm vỡ tràn đầy sức sống của ngày mai.

Nhân vật cụ Mết

Cụ mết là già làng, đại diện cho những giá trị, phẩm chất và văn hóa tinh thần của làng Xô Man và của núi rừng Tây Nguyên, nhân dân Tây Nguyên.

Ngoại hình “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu vẫn dài tới ngực, vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xéch ngược … Ông ở trần, ngực căng như cây xà nu lớn’, “Ông không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!’, ông chỉ nói ‘Được!'”

Cụ Mết cũng là người quan tâm nhiều nhất đến Tnú, kể lại cuộc đời Tnú cho dân làng nghe. Cụ vừa là người nối kết thế hệ trẻ với truyền thống với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong công cuộc đấu tranh hiện tại đi đúng hướng. Cụ đã nói lên một cách giản dị chân lí lớn lao của thời đại “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

Cụ Mết là người lãnh đạo dân làng cầm vũ khí quật khởi giết hết bọn giặc cứu Tnú và bảo vệ buôn làng dưới lưỡi mác dài của cụ là xác thằng Dục và bọn lính. Đêm đó làng Xô Man nổi dậy ào ào. Tiếng cụ Mết rền vang như lời của cah ông bất khuất “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người gài người trẻ người đàn ông người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ một cây rựa. Ai không có thì vót chông…”

Cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, là hiện thân của truyền thống, là kết tinh của sức mạnh, phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên,

Nhân vật Dít

Xuất hiện trong tác phẩm không nhiều, nhưng Dít là hiện thân và nối tiếp của Mai. Dít là bí thư chi bộ, chính trị viên xã hội, là cô gái trẻ đầy nghị lực, đầy bản lĩnh và trưởng thành nhanh chóng trong đấu tránh cách mạng của làng Xô Man.

Nét tính cách nổi bật ở Dít đó là tính gan dạ, nhanh nhẹn từ nhỏ. Dít rất nhanh nhẹn “không ai lọt ra được. Chỉ có con Dít nhỏ nhanh nhẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, A và thanh niên…”. Kẻ thù uy hiếp tinh thần “đôi mắt nó thì nhìn bọn giặc, bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt chị bí thư bây giờ vậy”.

Dít rất kiên quyết và rắn rỏi. Em cẩn thận kiểm tra giấy của Tnú khi Tnú về thăm làng. Không phải không biết Tnú, Dít muốn chắc chắn rằng Tnú dduwwocj nghỉ phép trở về thăm làng chứ không phải tự ý trốn về. Em rất nghiêm khắc và trung thành với cách mạng.

Thế nhưng, Dít cũng hết sức giàu tình cảm, đầy nữ tính.

Nhân vật bé Heng

Heng là hình ảnh biểu tượng của cây xà nu mới lớn, hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu mạnh mẽ và bất tử để kế tục truyền thống của cha anh đi trước. Heng nhanh nhẹn, hoạt bác, thông minh, tinh nghịch. Nó đội một cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một anh lính thực thụ.

Một thành cong khác của Nguyễn Trung Thành trong truyện ngắn rừng xà nu là đã vận dụng thành cong nhiều thủ pháp nghẹ thuật độc đáo, có sức biểu hiện cao. Không khí, màu sắc trong tác phẩm đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở bức tranh thiên nhiên, ở ngôn ngữ tâm lí hành động cảu các nhân vật.

Nhà văn đã xây dựng các nhân vật vừa có nét các tính sống động, vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (Cụ Mết, Tnú, Dít). Đặc biệt, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công hình tượng cây xà nu, một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc, tạo nên màu sắc sử thi và lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.

Rừng xà nu là truyện ngắn đậm chất sử thi. Truyện có lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng Tây Nguyên với những cánh rừng xà nu bạt ngàn và những thế hệ người dân Tây Nguyên anh hùng. Đó là bức tranh hoành tráng trong hình ảnh, trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết trang nghiêm.

Rừng xà nu là bản trường ca hùng tráng ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, đất nước và con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

Theo chúng tôi