Top 15 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Tên Tuệ Tâm Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Welovelevis.com

Tên Con Nguyễn Tuệ Tâm Có Ý Nghĩa Là Gì

Về thiên cách tên Nguyễn Tuệ Tâm

Thiên Cách là đại diện cho mối quan hệ giữa mình và cha mẹ, ông bà và người trên. Thiên cách là cách ám chỉ khí chất của người đó đối với người khác và đại diện cho vận thời niên thiếu trong đời.

Thiên cách tên Nguyễn Tuệ Tâm là Nguyễn, tổng số nét là 7 và thuộc hành Dương Kim. Do đó Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn là quẻ CÁT. Đây là quẻ có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.

Xét về địa cách tên Nguyễn Tuệ Tâm

Ngược với thiên cách thì địa cách đại diện cho mối quan hệ giữa mình với vợ con, người nhỏ tuổi hơn mình và người bề dưới. Ngoài ra địa cách còn gọi là “Tiền Vận” ( tức trước 30 tuổi), địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận tuổi mình.

Địa cách tên Nguyễn Tuệ Tâm là Tuệ Tâm, tổng số nét là 14 thuộc hành Âm Hỏa. Do đó địa cách sẽ thuộc vào quẻ Phù trầm phá bại là quẻ HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về nhân cách tên Nguyễn Tuệ Tâm

Nhân cách là chủ vận ảnh hưởng chính đến vận mệnh của cả đời người. Nhân cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Nhân cách là nguồn gốc tạo vận mệnh, tích cách, thể chất, năng lực, sức khỏe, hôn nhân của gia chủ, là trung tâm của họ và tên. Muốn tính được Nhân cách thì ta lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên.

Nhân cách tên Nguyễn Tuệ Tâm là Nguyễn Tuệ do đó có số nét là 17 thuộc hành Dương Kim. Như vậy nhân cách sẽ thuộc vào quẻ Cương kiện bất khuất là quẻ CÁT. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Về ngoại cách tên Nguyễn Tuệ Tâm

Ngoại cách là đại diện mối quan hệ giữa mình với thế giới bên ngoài như bạn bè, người ngoài, người bằng vai phải lứa và quan hệ xã giao với người khác. Ngoại cách ám chỉ phúc phận của thân chủ hòa hợp hay lạc lõng với mối quan hệ thế giới bên ngoài. Ngoại cách được xác định bằng cách lấy tổng số nét của tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách.

Tên Nguyễn Tuệ Tâm có ngoại cách là Tâm nên tổng số nét hán tự là 4 thuộc hành Âm Hỏa. Do đó ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ Phá hoại diệt liệt là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về tổng cách tên Nguyễn Tuệ Tâm

Tổng cách là chủ vận mệnh từ trung niên về sau từ 40 tuổi trở về sau, còn được gọi là “Hậu vận”. Tổng cách được xác định bằng cách cộng tất cả các nét của họ và tên lại với nhau.

Do đó tổng cách tên Nguyễn Tuệ Tâm có tổng số nét là 20 sẽ thuộc vào hành Âm Thủy. Do đó tổng cách sẽ thuộc quẻ Phá diệt suy vong là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ trăm sự không thành, tiến thoái lưỡng nan, khó được bình an, có tai họa máu chảy. Cũng là quẻ sướng trước khổ sau, tuyệt đối không thể dùng.

Quan hệ giữa các cách tên Nguyễn Tuệ Tâm

Số lý họ tên Nguyễn Tuệ Tâm của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Kim” Quẻ này là quẻ Ý chí kiên cường, tự ái mạnh, ưa tranh đấu, quả cảm quyết đoán, sống thiếu năng lực đồng hoá. Thích tranh cãi biện luận, dễ có khuynh hướng duy ý chí, có khí phách anh hùng, cuộc đời nhiều thăng trầm.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Dương Kim – Âm Hỏa” Quẻ này là quẻ Kim Kim Hỏa: Tuy có vận số thành công và phát triển, nhưng do tính tình quá cương nghị nên dễ sinh bệnh về phổi, não, cuộc đờ định, có nhiều biến động (hung).

Kết quả đánh giá tên Nguyễn Tuệ Tâm tốt hay xấu

Như vậy bạn đã biêt tên Nguyễn Tuệ Tâm bạn đặt là tốt hay xấu. Từ đó bạn có thể xem xét đặt tên cho con mình để con được bình an may mắn, cuộc đời được tươi sáng.

Tên Con Châu Tuệ Tâm Có Ý Nghĩa Là Gì

Luận giải tên Châu Tuệ Tâm tốt hay xấu ?

Về thiên cách tên Châu Tuệ Tâm

Thiên Cách là đại diện cho mối quan hệ giữa mình và cha mẹ, ông bà và người trên. Thiên cách là cách ám chỉ khí chất của người đó đối với người khác và đại diện cho vận thời niên thiếu trong đời.

Thiên cách tên Châu Tuệ Tâm là Châu, tổng số nét là 7 và thuộc hành Dương Kim. Do đó Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn là quẻ CÁT. Đây là quẻ có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.

Xét về địa cách tên Châu Tuệ Tâm

Ngược với thiên cách thì địa cách đại diện cho mối quan hệ giữa mình với vợ con, người nhỏ tuổi hơn mình và người bề dưới. Ngoài ra địa cách còn gọi là “Tiền Vận” ( tức trước 30 tuổi), địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận tuổi mình.

Địa cách tên Châu Tuệ Tâm là Tuệ Tâm, tổng số nét là 14 thuộc hành Âm Hỏa. Do đó địa cách sẽ thuộc vào quẻ Phù trầm phá bại là quẻ HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về nhân cách tên Châu Tuệ Tâm

Nhân cách là chủ vận ảnh hưởng chính đến vận mệnh của cả đời người. Nhân cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Nhân cách là nguồn gốc tạo vận mệnh, tích cách, thể chất, năng lực, sức khỏe, hôn nhân của gia chủ, là trung tâm của họ và tên. Muốn tính được Nhân cách thì ta lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên.

Nhân cách tên Châu Tuệ Tâm là Châu Tuệ do đó có số nét là 17 thuộc hành Dương Kim. Như vậy nhân cách sẽ thuộc vào quẻ Cương kiện bất khuất là quẻ CÁT. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Về ngoại cách tên Châu Tuệ Tâm

Ngoại cách là đại diện mối quan hệ giữa mình với thế giới bên ngoài như bạn bè, người ngoài, người bằng vai phải lứa và quan hệ xã giao với người khác. Ngoại cách ám chỉ phúc phận của thân chủ hòa hợp hay lạc lõng với mối quan hệ thế giới bên ngoài. Ngoại cách được xác định bằng cách lấy tổng số nét của tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách.

Tên Châu Tuệ Tâm có ngoại cách là Tâm nên tổng số nét hán tự là 4 thuộc hành Âm Hỏa. Do đó ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ Phá hoại diệt liệt là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về tổng cách tên Châu Tuệ Tâm

Tổng cách là chủ vận mệnh từ trung niên về sau từ 40 tuổi trở về sau, còn được gọi là “Hậu vận”. Tổng cách được xác định bằng cách cộng tất cả các nét của họ và tên lại với nhau.

Do đó tổng cách tên Châu Tuệ Tâm có tổng số nét là 20 sẽ thuộc vào hành Âm Thủy. Do đó tổng cách sẽ thuộc quẻ Phá diệt suy vong là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ trăm sự không thành, tiến thoái lưỡng nan, khó được bình an, có tai họa máu chảy. Cũng là quẻ sướng trước khổ sau, tuyệt đối không thể dùng.

Quan hệ giữa các cách tên Châu Tuệ Tâm

Số lý họ tên Châu Tuệ Tâm của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Kim” Quẻ này là quẻ Ý chí kiên cường, tự ái mạnh, ưa tranh đấu, quả cảm quyết đoán, sống thiếu năng lực đồng hoá. Thích tranh cãi biện luận, dễ có khuynh hướng duy ý chí, có khí phách anh hùng, cuộc đời nhiều thăng trầm.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Dương Kim – Âm Hỏa” Quẻ này là quẻ Kim Kim Hỏa: Tuy có vận số thành công và phát triển, nhưng do tính tình quá cương nghị nên dễ sinh bệnh về phổi, não, cuộc đờ định, có nhiều biến động (hung).

Kết quả đánh giá tên Châu Tuệ Tâm tốt hay xấu

Như vậy bạn đã biêt tên Châu Tuệ Tâm bạn đặt là tốt hay xấu. Từ đó bạn có thể xem xét đặt tên cho con mình để con được bình an may mắn, cuộc đời được tươi sáng.

Tên Con Trần Tuệ Tâm Có Ý Nghĩa Là Gì

Luận giải tên Trần Tuệ Tâm tốt hay xấu ?

Về thiên cách tên Trần Tuệ Tâm

Thiên Cách là đại diện cho mối quan hệ giữa mình và cha mẹ, ông bà và người trên. Thiên cách là cách ám chỉ khí chất của người đó đối với người khác và đại diện cho vận thời niên thiếu trong đời.

Thiên cách tên Trần Tuệ Tâm là Trần, tổng số nét là 7 và thuộc hành Dương Kim. Do đó Thiên cách tên bạn sẽ thuộc vào quẻ Cương ngoan tuẫn mẫn là quẻ CÁT. Đây là quẻ có thế đại hùng lực, dũng cảm tiến lên giàng thành công. Nhưng quá cương quá nóng vội sẽ ủ thành nội ngoại bất hòa. Con gái phải ôn hòa dưỡng đức mới lành.

Xét về địa cách tên Trần Tuệ Tâm

Ngược với thiên cách thì địa cách đại diện cho mối quan hệ giữa mình với vợ con, người nhỏ tuổi hơn mình và người bề dưới. Ngoài ra địa cách còn gọi là “Tiền Vận” ( tức trước 30 tuổi), địa cách biểu thị ý nghĩa cát hung (xấu tốt trước 30 tuổi) của tiền vận tuổi mình.

Địa cách tên Trần Tuệ Tâm là Tuệ Tâm, tổng số nét là 14 thuộc hành Âm Hỏa. Do đó địa cách sẽ thuộc vào quẻ Phù trầm phá bại là quẻ HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về nhân cách tên Trần Tuệ Tâm

Nhân cách là chủ vận ảnh hưởng chính đến vận mệnh của cả đời người. Nhân cách chi phối, đại diện cho nhận thức, quan niệm nhân sinh. Nhân cách là nguồn gốc tạo vận mệnh, tích cách, thể chất, năng lực, sức khỏe, hôn nhân của gia chủ, là trung tâm của họ và tên. Muốn tính được Nhân cách thì ta lấy số nét chữ cuối cùng của họ cộng với số nét chữ đầu tiên của tên.

Nhân cách tên Trần Tuệ Tâm là Trần Tuệ do đó có số nét là 17 thuộc hành Dương Kim. Như vậy nhân cách sẽ thuộc vào quẻ Cương kiện bất khuất là quẻ CÁT. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Về ngoại cách tên Trần Tuệ Tâm

Ngoại cách là đại diện mối quan hệ giữa mình với thế giới bên ngoài như bạn bè, người ngoài, người bằng vai phải lứa và quan hệ xã giao với người khác. Ngoại cách ám chỉ phúc phận của thân chủ hòa hợp hay lạc lõng với mối quan hệ thế giới bên ngoài. Ngoại cách được xác định bằng cách lấy tổng số nét của tổng cách trừ đi số nét của Nhân cách.

Tên Trần Tuệ Tâm có ngoại cách là Tâm nên tổng số nét hán tự là 4 thuộc hành Âm Hỏa. Do đó ngoại cách theo tên bạn thuộc quẻ Phá hoại diệt liệt là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ Điềm phá gia, gia duyên rất bạc, có làm không có hưởng, nguy nạn liên miên, chết nơi đất khách, không có lợi khi ra khỏi nhà, điều kiện nhân quả tiên thiên kém tốt.

Luận về tổng cách tên Trần Tuệ Tâm

Tổng cách là chủ vận mệnh từ trung niên về sau từ 40 tuổi trở về sau, còn được gọi là “Hậu vận”. Tổng cách được xác định bằng cách cộng tất cả các nét của họ và tên lại với nhau.

Do đó tổng cách tên Trần Tuệ Tâm có tổng số nét là 20 sẽ thuộc vào hành Âm Thủy. Do đó tổng cách sẽ thuộc quẻ Phá diệt suy vong là quẻ ĐẠI HUNG. Đây là quẻ trăm sự không thành, tiến thoái lưỡng nan, khó được bình an, có tai họa máu chảy. Cũng là quẻ sướng trước khổ sau, tuyệt đối không thể dùng.

Quan hệ giữa các cách tên Trần Tuệ Tâm

Số lý họ tên Trần Tuệ Tâm của nhân cách biểu thị tính cách phẩm chất con người thuộc “Dương Kim” Quẻ này là quẻ Ý chí kiên cường, tự ái mạnh, ưa tranh đấu, quả cảm quyết đoán, sống thiếu năng lực đồng hoá. Thích tranh cãi biện luận, dễ có khuynh hướng duy ý chí, có khí phách anh hùng, cuộc đời nhiều thăng trầm.

Sự phối hợp tam tài (ngũ hành số) Thiên – Nhân – Địa: Vận mệnh của phối trí tam tai “Dương Kim – Dương Kim – Âm Hỏa” Quẻ này là quẻ Kim Kim Hỏa: Tuy có vận số thành công và phát triển, nhưng do tính tình quá cương nghị nên dễ sinh bệnh về phổi, não, cuộc đờ định, có nhiều biến động (hung).

Kết quả đánh giá tên Trần Tuệ Tâm tốt hay xấu

Như vậy bạn đã biêt tên Trần Tuệ Tâm bạn đặt là tốt hay xấu. Từ đó bạn có thể xem xét đặt tên cho con mình để con được bình an may mắn, cuộc đời được tươi sáng.

: Chân Tâm Và Vọng Tâm

[TẬP 4]: Chân Tâm Và Vọng Tâm

3.2. Biện Thể

          (Giải) Đệ nhị, biện Thể. Đại Thừa kinh giai dĩ Thật Tướng vi chánh thể. Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian, phi quá khứ, phi hiện tại, phi vị lai, phi thanh, hoàng, xích, bạch, trường, đoản, phương, viên, phi hương, phi vị, phi xúc, phi pháp, mịch chi liễu bất khả đắc, nhi bất khả ngôn kỳ vô. Cụ tạo bách giới thiên như, nhi bất khả ngôn kỳ hữu. Ly nhất thiết duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn văn tự tướng, nhi duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn, văn tự, phi ly thử, biệt hữu tự tánh. Yếu chi, ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Ly cố, vô tướng. Tức cố, vô bất tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh Thật Tướng. Thật Tướng chi Thể, phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch. Chiếu nhi tịch, cưỡng danh Thường Tịch Quang độ. Tịch nhi chiếu, cưỡng danh Thanh Tịnh Pháp Thân. Hựu, chiếu tịch, cưỡng danh Pháp Thân. Tịch chiếu, cưỡng danh Báo Thân. Hựu, tánh đức tịch chiếu, danh Pháp Thân. Tu đức chiếu tịch, danh Báo Thân. Hựu tu đức chiếu tịch, danh Thụ Dụng Thân. Tu đức tịch chiếu, danh Ứng Hóa Thân. Tịch chiếu bất nhị, thân độ bất nhị. Tánh tu bất nhị, chân ứng bất nhị, vô phi Thật Tướng. Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị. Thị cố, cử Thể tác y, tác chánh, tác pháp, tác báo, tác tự, tác tha. Nãi chí năng thuyết, sở thuyết, năng độ, sở độ, năng tín, sở tín, năng nguyện, sở nguyện, năng trì, sở trì, năng sanh, sở sanh, năng tán, sở tán, vô phi Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn dã.

     (解) 第二。辨體。大乘經皆以實相為正體。吾人現前一念心性。不在內。不在外。不在中間。非過去。非現在。非未來。非青黃赤白。長短方圓。非香。非味。非觸。非法。覓之了不可得。而不可言其無。具造百界千如。而不可言其有。離一切緣慮分別。語言文字相。而緣慮分別。語言文字。非離此別有自性。要之。離一切相。即一切法。離故無相。即故無不相。不得已強名實相。實相之體。非寂非照。而復寂而恆照。照而恆寂。照而寂。強名常寂光土。寂而照。強名清淨法身。又。照寂強名法身。寂照強名報身。又。性德寂照。名法身。修德照寂。名報身。又。修德照寂。名受用身。修德寂照。名應化身。寂照不二。身土不二。性修不二。真應不二。無非實相。實相無二。亦無不二。是故舉體作依作正。作法作報。作自作他。乃至能說所說。能度所度。能信所信。能願所願。能持所持。能生所生。能讚所讚。無非實相正印之所印也。

          (Giải: Thứ hai, biện định cái Thể. Các kinh Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Chánh Thể. Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, chẳng phải là quá khứ, chẳng phải là hiện tại, chẳng phải là tương lai, chẳng phải là xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, chẳng phải Hương, chẳng phải Vị, chẳng phải Xúc, chẳng phải Pháp. Tìm thì trọn chẳng thể được, nhưng chẳng thể nói là Không. Tạo đầy đủ bách giới thiên như, nhưng chẳng thể nói là Có. Lìa hết thảy duyên lự[1], phân biệt và tướng ngôn ngữ, văn tự, nhưng duyên lự, phân biệt và tướng ngôn ngữ, văn tự chẳng lìa khỏi điều này mà có tự tánh riêng biệt. Nói tóm gọn thì lìa hết thảy tướng chính là hết thảy pháp. Do “lìa” nên không có tướng, do “chính là” nên chẳng phải là không có tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng gọi là Thật Tướng. Thể của Thật Tướng chẳng Tịch, chẳng Chiếu, nhưng lại Tịch và luôn luôn Chiếu, tuy Chiếu nhưng luôn Tịch. Tuy Chiếu mà vẫn Tịch nên cưỡng gọi là Thường Tịch Quang Độ. Tuy Tịch nhưng vẫn Chiếu, nên cưỡng gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân. Lại nữa, do Chiếu mà Tịch nên cưỡng gọi là Pháp Thân. Tuy Tịch nhưng lại Chiếu nên cưỡng gọi là Báo Thân. Hơn nữa, do Tánh Đức tuy Tịch mà Chiếu nên gọi là Pháp Thân. Do Tu Đức tuy Chiếu mà Tịch nên gọi là Báo Thân. Lại nữa, Tu Đức tuy Chiếu nhưng vẫn Tịch nên gọi là Thụ Dụng Thân, Tu Đức tuy Tịch nhưng có thể Chiếu nên gọi là Ứng Hóa Thân. Tịch và Chiếu chẳng hai, thân và cõi nước chẳng hai, Tánh và Tu không hai, Chân và Ứng không hai, không gì chẳng phải là Thật Tướng. Thật Tướng không hai, mà cũng chẳng không hai. Vì thế, toàn bộ cái Thể có thể làm thành y báo, làm thành chánh báo, tạo thành Pháp Thân, tạo thành Báo Thân, tạo thành Tự, tạo thành Tha, cho đến người nói, đối tượng được nói, người hóa độ, kẻ được hóa độ, người tin, pháp được tin, người phát nguyện, điều được phát nguyện, người trì, pháp được trì, người sanh về, cõi để sanh về, người khen ngợi, đối tượng được khen ngợi, không gì chẳng  được Thật Tướng Chánh Ấn in vào).

          Phật giảng kinh này dựa theo lý luận và sự thật nào để nói? Phải hiểu rõ điều này trước rồi mới có thể thật sự sanh khởi tín tâm, y giáo phụng hành. Các kinh Đại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Thể[2]. Thật Tướng là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Nhân sinh là chính mình, vũ trụ là hoàn cảnh sống. Đối với chúng ta, kinh Đại Thừa trọng yếu như thế, chẳng thể không hiểu rõ hoàn cảnh sống của chính mình. Nếu không hiểu, sẽ mê hoặc. Hễ mê, ắt điên đảo, coi thật là giả, tưởng tà là chánh, xem ác là thiện; bởi đó, xử thế, đãi người, tiếp vật và tư tưởng, quan niệm đều nẩy sanh sai lầm. Kinh Đại Thừa chỉ dạy chúng ta một con đường tu hành chánh xác, đó là chỗ thù thắng của kinh điển Đại Thừa vậy.

          “Ngô nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất tại ngoại” (một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng ở ngoài): Đoạn này rất khó hiểu, nhưng đúng là chân tướng sự thật được nói một cách đơn giản, ách yếu. Triết học gọi Thật Tướng là Bản Thể. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật giải thích, nói theo mặt Thể thì Thật Tướng là “vô tướng”. Muôn pháp trong vũ trụ sanh ra như thế nào? Thế giới hình thành như thế nào? Động vật, thực vật tồn tại như thế nào? Đều là do một căn nguyên mà sanh ra. Căn nguyên ấy chính là Bản Thể. Những nhà triết học và tôn giáo trong ngoài nước xưa nay đều tìm tòi [lời giải đáp] cho vấn đề Bản Thể nhưng chưa đạt được kết luận, nên mới có những thuyết gọi là Nhất Nguyên Luận, Nhị Nguyên Luận, Đa Nguyên Luận[3], Duy Tâm, Duy Thức. Từ ba ngàn năm trước, qua các kinh Đại Thừa  đức  Phật  đã  nói  rồi.  Đức  Phật  nói  bản  thể của vạn hữu là tâm.

Muôn vật trong trời đất đều do tâm biến hiện ra. Chủ thể biến hiện là một, còn những cái được biến hiện thì vô lượng vô biên. Kinh Đại Thừa gọi nó là Chân Như Bổn Tánh. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan kiếm chân tâm ở bảy chỗ, Phật đều bảo chẳng đúng. Chân tâm ấy không có hình tượng, không có màu sắc, không phải là quá khứ, hiện tại, vị lai, không phải là Hương, Vị, Xúc, Pháp; nhưng nó là Có, chẳng phải là Không! Phật pháp thường dùng chữ Không để hình dung nó. “Không” chẳng phải là cái gì cũng chẳng có! Tâm Kinh dạy: “Sắc chính là Không, Không chính là Sắc. Sắc chẳng khác Không. Không chẳng khác Sắc”. Sắc là nói về hiện tượng, Không là nói về Bản Thể. Không là chủ thể biến hiện (Năng Biến), Sắc là cái được biến hiện (Sở Biến). Quý vị đều có kinh nghiệm nằm mộng, cảnh giới trong mộng nhất định phải có một thứ gì đó biến hiện cảnh mộng, đem so với tâm tánh thì cảnh giới hiện ra trong mộng là sắc tướng, là do cái Thể có khả năng biến hiện đã biến hiện ra chúng. Sắc tướng là giả, Năng Biến (cái có khả năng biến hiện) là chân. Do vậy, tâm gọi là Chân Tâm, tánh được gọi là Bổn Tánh. Tướng là giả, bị biến đổi, nhưng Thể của những tướng được biến hiện thì là chân. Sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong mười pháp giới đều do nó biến hiện ra. Do vậy, Thiền gia có một câu nói: “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ” (Nếu ai hiểu được tâm, đại địa không còn một tấc đất).

          Chúng  ta hiện  đang mê,  suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, tạo nghiệp, chịu báo, cảm nhận lục đạo luân hồi, hoàn toàn là do tự tâm biến hiện ra. Nếu rời khỏi tâm tánh thì chẳng có một pháp nào để có thể đạt được! Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta và một niệm tâm tánh chư Phật Như Lai chẳng hai, chẳng khác, nhưng có ý niệm thứ hai là sai rồi. Niệm thứ nhất là bổn tánh, niệm thứ hai là vọng tưởng, chấp trước. Nếu giữ được nhất niệm thì sẽ thành Phật. Niệm thứ nhất không có phân biệt, chấp trước, bình đẳng đối với muôn pháp bên ngoài, chẳng có thiện hay ác, đúng hay sai, tà hay chánh, chân hay vọng, lợi hay hại, đó gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Cái niệm thứ hai là phân biệt, chấp trước đã dấy lên. Ví như tôi cầm một vật nào đó trong tay, quý vị vừa trông thấy thì rất rõ ràng, nhưng qua ý niệm thứ hai liền suy nghĩ vật này có tên là gì. Nó vốn không có tên gọi, tên gọi là do người ngoài đặt cho nó, là giả danh. Gọi nó là một trang giấy, màu trắng, tức là khởi lên phân biệt, chấp trước. Từ đấy, dẫn khởi tham, sân, si, mạn. Chúng ta chẳng thể giữ cho niệm thứ nhất không biến đổi, hễ gặp bất cứ cảnh giới nào liền lập tức mê. Đã mê lại càng thêm mê, luân chuyển trong sáu nẻo, chẳng có thuở thoát ra. Đấy chính là lý luận căn bản trong Phật pháp, chẳng thể không biết. Dùng vàng chế ra đồ vật, món nào cũng là vàng. Đồ vật có thể biến đổi, chứ vàng chẳng thay đổi. Tướng có thể biến đổi, chứ Thể chẳng biến đổi. Tâm tánh bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến. Đáng tiếc là chúng ta vọng niệm này tiếp nối vọng niệm khác, vĩnh viễn không ngưng nghỉ. Do đây, tướng mà mình thấy được là vọng tưởng. Nếu có một ngày nào đó, thật sự đạt được nhất tâm thì sẽ thật sự thấy được Thật Tướng. Thật Tướng là hết thảy pháp bất sanh bất diệt, trong kinh Phật gọi đó là Vô Sanh Pháp Nhẫn.

          Chúng ta sử dụng cái tâm sanh diệt, nên thấy hết thảy pháp đều có sanh, có diệt. Con người có sanh, lão, bệnh, tử, thế giới có thành, trụ, hoại, không. Chư Phật, Bồ Tát dùng tâm bất sanh bất diệt, thấy hết thảy pháp bất sanh bất diệt. Học Phật tức là muốn công phu đạt đến mức nhất tâm, sự tu học trong Đại Thừa Phật pháp xoay quanh điều này. Thiền Tông gọi nó là Thiền Định, còn pháp môn Niệm Phật gọi nó là Nhất Tâm. Nhất Tâm là Thiền Định, mà cũng là Thật Tướng, Chân Như, Bổn Tánh. Niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn thì sẽ có cùng một cảnh giới với minh tâm kiến tánh trong nhà Thiền. Trong phương diện Giáo Học, ắt cần phải lập ra thuật ngữ danh tướng để tiện cho con người thấu hiểu. Danh từ là giả lập, chớ nên chấp trước. Căn bệnh lớn nhất trong các pháp thế gian là chấp trước. Chúng ta nghiên cứu tâm tánh, nói đến các thứ danh tướng của Chân Như Bổn Tánh, tự mình đừng nên chấp trước, mà cũng đừng khiến cho người khác chấp trước. Tu học Phật pháp khó nhất là ở chỗ này. Đức Phật thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, nhưng kinh Kim Cang lại chép Ngài chẳng nói một pháp nào cả! Đức Phật nói: “Tu Bồ Đề! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm, ngã đương hữu sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố” (Này Tu Bồ Đề! Ông đừng nói: Như Lai nghĩ như thế này, ta sẽ có pháp để nói, đừng nghĩ như vậy. Vì sao? Nếu có ai nói Như Lai có thuyết pháp thì chính là báng Phật vì chẳng thể hiểu lời ta nói). Chúng ta chớ nên chấp trước pháp do đức Phật đã nói, phải thấu hiểu sâu xa điều này. Hễ chấp sẽ mê!

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. Chỉ một câu này đã nói toạc ra cái gốc bệnh của chúng ta chính là phân biệt, chấp trước. Không có phân biệt, chấp trước thì chính là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là cuộc sống ở ngay trước mắt chúng ta. Phật pháp không có gì khác, chỉ là phá chấp mà thôi. Phá trừ Ngã Chấp, chứng quả vị A La Hán trong Tiểu Thừa; Đại Thừa phá trừ Pháp Chấp, sẽ viên mãn thành Phật. Thành Phật chỉ là phá được cả hai chấp mà thôi! Ngã Chấp là cội nguồn của Phiền Não Chướng, phá được Ngã Chấp thì đoạn được Kiến Tư phiền não. Phá được Kiến Tư phiền não sẽ thoát khỏi lục đạo luân hồi. Pháp Chấp là cội nguồn của vô minh, phá được Pháp Chấp sẽ đoạn vô minh. Kinh điển dù Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều giảng như vậy. Do đó, có rất nhiều tông phái, vô lượng pháp môn, nhưng phương pháp, lý luận đều nhằm giúp cho người học phá chấp và minh tâm kiến tánh. Nay chúng ta chọn lựa pháp môn Niệm Phật, niệm một câu A Di Đà Phật, dùng công phu chân thật của chính mình lại thêm bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, người căn tánh lanh lợi chịu buông phân biệt, chấp trước xuống sẽ khai ngộ dễ dàng.

          “Mịch chi liễu bất khả đắc” (tìm kiếm thì trọn chẳng thể được) là nói về tâm tánh. Đạt Ma Tổ Sư lúc diện bích (nhìn vào vách) chín năm tại chùa Thiếu Lâm, tìm chẳng được một ai để truyền pháp. Về sau, có Huệ Khả đến cầu pháp, chân thành, cung kính Tổ Đạt Ma. Tổ Đạt Ma ngồi yên, chẳng đếm xỉa gì tới. Nhằm biểu thị lòng thành, Huệ Khả dùng đao chặt tay trái, dâng lên cúng dường. Tổ Đạt Ma cảm động, chấp nhận. Huệ Khả liền hướng về Tổ Đạt Ma, thưa: “Tâm con chẳng an, cầu đại sư an cái tâm cho con”. Tổ Đạt Ma bảo: “Ông đem cái tâm lại đây, ta sẽ an nó cho ông”. Huệ Khả thưa: “Con tìm tâm trọn chẳng thể được!” Đạt Ma nói: “Ta đã an cái tâm cho ông rồi!” Huệ Khả vừa nghe liền đại ngộ. Trong cuộc đối thoại của hai vị, Tổ Đạt Ma nói mà chẳng nói, Huệ Khả nghe mà chẳng nghe.

          Tâm là có, chẳng thể bảo là không có, tận hư không, trọn pháp giới, muôn pháp, bách giới, thiên như trong vũ trụ đều do nó biến hiện, nhưng chẳng thể nói muôn pháp trong vũ trụ là thật sự có. Chúng ta thấy chúng thật sự có, vì dùng cái tâm phân biệt để nhìn. Chân tướng là “đương Thể tức Không” (ngay nơi bản thể của chúng là Không). Kinh Lăng Nghiêm khai huệ nói: “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”[4]. Vẫn phải nói tới sanh diệt, vì không nói sanh diệt, chúng ta sẽ không có cách gì thấu hiểu được. Sanh và diệt là một, chẳng phải hai. Tướng của nó là giả tướng, kinh gọi là Diệu Hữu: “Chân Không bất không, Diệu Hữu phi hữu” (Chân Không chẳng phải là không mà Diệu Hữu chẳng phải là hữu). Nếu tâm đạt đến mức thanh tịnh kha khá thì mới có thể phần nào lãnh ngộ được ý nghĩa này. Ví như coi phim, cuốn phim là do từng tấm phim ghép lại, nhưng khi chiếu phim với tốc độ rất nhanh, chỉ thấy hình tướng liên tục, mỗi một giây [ống kính của máy chiếu phim] đóng mở hai mươi bốn lần, kẻ tâm thô, thiếu công phu định lực sẽ chẳng thể nào phân biệt được! Đức Phật nói giả tướng của vạn hữu trong vũ trụ sanh diệt chỉ trong khoảng khảy ngón tay. Trong một giây có thể khảy ngón tay bốn lần. Trong một khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Do vậy, trong một giây vừa vặn có hai cái mười tám ngàn lần sanh diệt[5]. Quý vị có thể nào nhận biết nó là giả hay chăng? Bậc Đại Thừa Bát Địa Bồ Tát công phu định lực sâu dầy mới có thể thấy được rõ ràng!

          Niệm Phật niệm đến mức “công phu thành phiến” là bước thứ nhất, tiến hơn một bước nữa là “Sự nhất tâm bất loạn”. Tiến thêm bước nữa là niệm đến mức “Lý nhất tâm bất loạn” sẽ thấy được cảnh giới sanh diệt ấy. Tướng đều là huyễn tướng, chẳng phải là chân tướng. Nếu quả thật có thể thấu hiểu hoặc có thể khẳng định thì sẽ hiểu thấu đáo câu kinh Kim Cang sau đây: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng). Kinh Kim Cang còn dạy: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh” (Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng). Ấy là lời chân thật. Pháp hữu vi: Theo như Bách Pháp Minh Môn Luận thì tất cả hết thảy pháp quy nạp thành một trăm pháp, trong ấy chia thành năm loại lớn: Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, sắc pháp, bất tương ứng hành pháp, vô vi pháp. Trừ sáu pháp vô vi ra, chín mươi bốn pháp kia đều gọi là hữu vi pháp. Hữu vi pháp đều là mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, như ánh chớp, đấy là sự thật. Nếu có thể thật sự tin tưởng thì liền đạt được thanh lương tự tại. Đấy chính là sự thụ dụng thật sự trong Đại Thừa Phật pháp.

“Bách giới” chính là mười pháp giới được mở rộng ra, trong mỗi một pháp giới lại có đủ mười pháp giới, nên [10×10] thành một trăm giới. “Thiên như”: Trong mỗi một giới đều có mười như thị, [khái niệm] này xuất phát từ kinh Pháp Hoa. “Thập như thị” là như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh đẳng. Mỗi một pháp giới có mười như thị, nên một trăm pháp giới có một ngàn như thị; vì vậy gọi là “bách giới thiên như”[6].

          Đại Thừa Bồ Tát chẳng chấp trước Có, mà cũng chẳng chấp trước Không. Thấp hơn Đại Thừa thì phàm phu chấp Có, Nhị Thừa chấp Không, chấp lệch vào một bên là sai. Chấp Có thì luân hồi trong lục đạo; chấp không sẽ chẳng thể thấy được tánh. Chỉ có Đại Thừa Bồ Tát biết chân tướng sự thật, chẳng chấp bên nào hết. Tâm tánh chẳng thể được, cảnh giới cũng chẳng thể được. “Chẳng thể được” là thật; nếu nghĩ là “có thể được” thì đã hiểu sai rồi! Thân thể của chúng ta và hết thảy muôn pháp đều biến hóa sanh diệt trong từng sát-na, không có một pháp nào có thể được. Nếu thật sự hiểu rõ sâu xa sự thật này thì ý niệm được – mất sẽ nhạt bớt, phiền não, ưu lự có thể giảm thiểu tới tám chín chục phần trăm! Đây là cảnh giới chẳng thể được, sự cũng chẳng thể được. Tâm kinh dạy: “Vô trí, diệc vô đắc”, không chỉ Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Bát Giới chẳng thể được, ngay trí Năng Chứng và pháp được chứng là Bồ Đề Niết Bàn cũng chẳng thể được. Do tâm tánh là Không, Năng Biến (chủ thể biến đổi, tức tâm) đã chẳng thể được, thì Sở Biến (đối tượng bị biến hóa, tức hết thảy vạn pháp trong vũ trụ) làm sao có thể được? Nhập cảnh giới này thì chân tướng sẽ thấu hiểu rành rành, ngộ nhập Thật Tướng thì sẽ tận tình hưởng thụ hết thảy sự vật. Đừng nghĩ chúng là thật sự có, rồi mong chiếm hữu thì cuộc sống trên thế gian sẽ là du hý thần thông.

          Bổn tánh tuyệt đối chẳng có tướng hư vọng, “duyên lự” là tư tưởng, “phân biệt” là kiến giải. Trong tâm tánh không có duyên lự, phân biệt. Cổ đức dạy kẻ sơ học phải khởi sự từ Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là vô tri, cầu đạt tâm thanh tịnh, chứ không chấp thuận quý vị có kiến giải, có tư tưởng. Lìa hết thảy ngôn ngữ, văn tự, ở mãi trong cảnh giới Định. Người học Phật hiện thời dồn công sức vào nơi “có hiểu biết, có tư tưởng, có kiến giải”, sai lầm quá đỗi! Dẫu học Phật giỏi đến mấy, cũng chỉ có thể gọi là nhà nghiên cứu Phật học lớn, chứ chẳng thể đoạn phiền não, đắc thanh tịnh tâm, liễu sanh tử, thoát tam giới, siêu phàm nhập thánh. Tu học Tịnh Tông khá đặc biệt, ai nấy đều có thể học, môn này không dạy người học trụ tâm nơi Định mà trụ nơi danh hiệu A Di Đà Phật. Trong tâm, trừ A Di Đà Phật ra, chẳng có một chút gì khác. Đấy gọi là “có Tịnh Độ”, hễ có Tịnh Độ, ắt sẽ sanh về Tịnh Độ.

          Trong lúc học Phật thì vẫn có những chuyện thế gian cần phải làm, mà lại càng phải sốt sắng làm. Phật pháp nằm trong thế gian, chẳng hoại tướng thế gian. Kinh Hoa Nghiêm nói “sự lý vô ngại, sự sự vô ngại”. Lý là tâm tánh, vĩnh viễn thanh tịnh. Sự là muôn hình tượng, làm chuyện thế gian đến mức viên mãn. Hoằng pháp trong hiện thời ắt phải dùng phương pháp cởi mở. Trước mắt, bất luận nam, nữ, già, trẻ, ai nấy đều cầu danh vọng, lợi dưỡng. Nếu quý vị nói học Phật phải buông bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng, sẽ chẳng có ai học. Phải kềm cặp chúng sanh, dùng phương pháp chánh xác để cầu tiếng tăm, lợi dưỡng vừa lòng thỏa ý họ. Điều này hoàn toàn chẳng trái nghịch Phật pháp. Phật pháp vốn dạy con người lìa khổ được vui mà! Hiểu rõ rệt đạo lý sau đây: “Trong cửa Phật, có cầu ắt ứng. Cầu phú quý, đắc phú quý. Cầu công danh, đắc công danh”. Gia đình mỹ mãn, xã hội an định, thiên hạ thái bình, điều gì cũng cầu được. Đọc kỹ và làm theo những chỉ dạy trong ba kinh Tịnh Độ thì sẽ đạt được những mục đích ấy.

          “Ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp. Ly cố, vô tướng. Tức cố, vô bất tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh Thật Tướng” (Lìa hết thảy tướng chính là hết thảy pháp. Do “lìa”, nên vô tướng. Do “chính là”, nên chẳng phải không có tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng gọi là Thật Tướng). Thật Tướng cũng là một danh từ giả danh. Tách lìa tướng danh tự liền thấy được chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Khi chẳng khởi một niệm sẽ thấy được chân tướng, phải dùng nhất tâm thì mới được. Còn dùng ý niệm sẽ là nhị tâm, rồi lại có phân biệt, liền trở thành tam tâm! “Vô tướng” là không có phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, chẳng có tướng hư vọng, chẳng có ý niệm. Chữ “tức” ý nói sống ngay trong thế gian này, chẳng tách rời thế gian, chẳng tách lìa, chỉ có thể thụ dụng nó. Hết thảy muôn sự muôn pháp đều tồn tại, là có tướng, nhưng chẳng chấp trước vào những tướng ấy, chúng sẽ chẳng khởi tác dụng phụ, nhưng cũng chẳng thể buông bỏ nó. Hễ buông bỏ thì lại là chấp vào Không.

          “Thật Tướng chi Thể, phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch” (Thể của Thật Tướng chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại vừa tịch vừa luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch): Câu này giảng rõ “không rớt vào hai bên”. Tịch và Chiếu có thể lần lượt làm Thể và Dụng cho nhau. Thật Tướng tức là tâm tánh, bản thể của tâm tánh là Tịch, khởi tác dụng là Chiếu. Cũng có thể nói: Thể của tâm tánh là Chiếu, khởi tác dụng là Tịch. Tịch là vắng lặng[7], chẳng sanh một niệm, tức là như Lục Tổ đã nói: “Vốn chẳng có một vật”. “Chiếu” là hiểu rõ, vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều hiểu rõ ràng. Thể chẳng phải là Tịch, chẳng phải là Chiếu. Nó vốn chẳng thể nói là Tịch hay Chiếu. Hễ rớt vào Tịch hay Chiếu sẽ khởi lên phân biệt. Thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian thường dạy chúng ta hãy dùng Trung, tuyệt đối đừng thiên chấp một bên. Tiểu Thừa thiên chấp Không, phàm phu thiên chấp Có. “Trung” là “tịch nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch” (là tịch nhưng luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch)[8]. “Như như bất động” là Tịch, “rõ rệt rành rành” là Chiếu. Lý luận này hết sức trọng yếu. Khó thể hình dung Thật Tướng, lìa ngôn thuyết, lìa văn tự, lìa tâm duyên[9]. Ngôn ngữ nói chẳng được, suy nghĩ, tưởng tượng cũng chẳng dò lường được. Cổ đức thường nói: “Khai khẩu tiện thác, động niệm tức quai” (Mở miệng liền sai, động niệm liền trật). Khởi tâm động niệm đã chẳng phải là Thể của Thật Tướng, đem Tịch và Chiếu áp dụng vào Thật Tướng cũng chẳng được, nhưng quả thật tồn tại ý nghĩa Tịch và Chiếu. Lặng trong như nước, mặt nước giống như một tấm gương [đó là Tịch], có thể soi bóng những thứ bên ngoài rõ ràng, rành rẽ. Tâm địa thanh tịnh, thông suốt khắp mười phương tam thế, được gọi là Chiếu, còn gọi là “thần thông”, phàm phu chẳng thể thấu hiểu được. Loại năng lực này chẳng phải riêng chư Phật mới có, mà hết thảy chúng sanh đều có, đáng tiếc là đã chôn vùi phần lớn. Hiện thời, mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, đều thuộc về “thần thông”, nhưng năng lực nhỏ nhoi đến mức mắt bị ngăn cách bởi một tờ giấy sẽ không thể thấy được, khả năng nghe của tai cũng giống như vậy. Năng lực ấy vì sao bị chôn vùi? Chính là do một niệm bất giác mà có vô minh. Vô minh vừa khởi lên, năng lực của Chiếu bị mất đi. Có một niệm khởi, liền bị chướng ngại thành mê, càng mê, càng sâu. Những đạo lý “mê như thế nào, phương cách đả phá sự mê hoặc ấy hòng khôi phục cái tâm thanh tịnh” được sáu kinh, mười một luận[10] của tông Hoa Nghiêm và tông Duy Thức giảng tường tận nhất. Mê là tác dụng của cảm tình, tình càng sâu, mê càng nặng. Tình do mê vọng sanh ra, chính là hư tình giả ý [chắc chắn] sẽ biến đổi. Chiếu là Lý Trí, do Lý Trí sanh ra, vĩnh viễn chẳng biến đổi, Chiếu là chân tình. Phật pháp chẳng dùng chữ Tình, mà dùng một danh từ khác là Từ Bi. Từ Bi sanh từ Tịch và Chiếu, chẳng bị biến đổi.

          Trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ có năm chữ “thanh tịnh bình đẳng giác”, “thanh tịnh bình đẳng” là Tịch, “giác” là Chiếu, từ đây, sanh ra đại từ, đại bi. Phải như thế nào thì mới có thể khế nhập cảnh giới ấy? Thực hiện từ “thấy thấu suốt, buông xuống”. “Thấy thấu suốt” là trí huệ, “buông xuống” là công phu. Phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng mắc thảy đều buông xuống. Trong cuộc sống thường nhật, sống tùy duyên, được đại tự tại. Đấy chính là hạnh phúc chân chánh.

          “Chiếu nhi tịch, cưỡng danh Thường Tịch Quang độ. Tịch nhi Chiếu, cưỡng danh Thanh Tịnh Pháp Thân” (Tuy tịch mà chiếu nên cưỡng gọi là cõi Thường Tịch Quang. Tuy Chiếu mà Tịch, cưỡng gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân). Hai câu này ý nói: Một niệm tâm tánh nơi bổn tánh của chúng ta cũng chính là thân và cõi nước của chư Phật Như Lai. Thân và cõi nước chẳng hai, do Tịch và Chiếu chẳng hai, Tịch và Chiếu có thể dùng làm Thể và Dụng lẫn cho nhau, đấy là chỗ dựa nguyên thủy để lập luận. Cõi Thường Tịch Quang và Thanh Tịnh Pháp Thân đều thuộc vào bản thể của tâm tánh. Ba thân của Phật, tức Pháp Thân, Báo Thân và Ứng Thân là từ Thể mà khởi Dụng, [nói như vậy] dễ thấu hiểu hơn. “Pháp” là hết thảy vạn pháp, hết thảy vạn pháp là chính mình. Thân cũng là một pháp trong vạn pháp. Nghĩa này hết sức khó hiểu. Đức Phật thường dùng mộng huyễn để sánh ví: Trong mộng có các hình tượng biến hiện, mà trong mộng cũng có chính mình. Trừ chính mình ra, có sơn hà, đại địa, lầu, đài, điện, gác, rất nhiều nhân vật. Cảnh giới trong mộng từ đâu mà có? Mộng do tâm tánh biến hiện ra. Tâm tánh chia ra thành chân và vọng. Mộng là do vọng tâm biến hiện. Những cảnh tượng khác cũng đều do vọng tâm ấy biến hiện. Do đây, có thể lãnh ngộ “toàn bộ giấc mộng ấy vốn là do chính mình [biến hiện]”, toàn thể mộng chính là tâm, đây là điều có thể khẳng định được. Hiện tại, chúng ta đang nằm mộng, y báo, chánh báo trang nghiêm, núi, sông, đại địa trong mười pháp giới đều do tự tâm biến hiện. Trừ chân tâm bổn tánh ra, không có một pháp nào để có thể được. Phật và các đại Bồ Tát hiểu biết rõ ràng sự thật này, chứng đắc Pháp Thân, nên các Ngài nhất loạt đối đãi bình đẳng với chúng sanh. Bởi lẽ, hư không pháp giới và chính mình có cùng một Thể, há còn nói tới điều kiện nào nữa ư? Phật, Bồ Tát đối xử chúng sanh là chính mình đối xử chính mình, vì thế mới “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”. Người đời không biết, La Hán, Bích Chi Phật và Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng hiểu rõ. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, đích thân chứng được chân tướng sự thật mới hiểu rõ. Tư tưởng, kiến giải, cách nghĩ, cách nhìn của họ chẳng khác chư Phật Như Lai. Đấy gọi là “nhập Phật tri kiến”.

          “Tịch chiếu cưỡng danh Báo Thân” (Tuy tịch mà chiếu nên cưỡng gọi là Báo Thân). Tịch mà chiếu, đấy là công phu, tức tâm thanh tịnh khởi tác dụng, tràn đầy trí huệ, trở thành Báo Thân trí huệ, thấy tột cùng trọn khắp hư không pháp giới đều là hiện tượng tịch diệt.

          “Tánh Đức tịch chiếu, danh Pháp Thân. Tu Đức chiếu tịch, danh Báo Thân” (Tánh Đức tịch mà chiếu, gọi là Pháp Thân. Tu Đức chiếu mà tịch, gọi là Báo Thân). Đây là dựa theo Tánh và Tu để nói. Tánh là bổn tánh, Chân Như bổn tánh tịch chiếu ai nấy đều có, phàm và thánh giống nhau, nơi Phật chẳng tăng, tại phàm chẳng giảm. Nhưng Tu Đức thì khác nhau, Phật, Bồ Tát có tu hành, hiểu rõ chân tướng của sự thật.  Phật, Bồ Tát dạy chúng ta thì chúng ta nửa tin, nửa ngờ, thậm chí chẳng thể tiếp nhận. “Chiếu” là hiểu rành rẽ, rõ ràng, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng. “Tịch” là như như bất động, đối với cảnh giới chẳng khởi tâm động niệm. Đấy gọi là Tự Thụ Dụng Thân. Như như bất động, trọn chẳng có phiền não, thứ gì cũng rõ ràng, đầy ắp trí huệ, đấy là tự thụ dụng, mà cũng chính là sự hưởng thụ chân chánh của chính mình.

          Chúng ta sống rất khổ, phiền não nhiều như vậy, chẳng có Tịch. Trong tâm suy nghĩ lung tung, thứ gì ở bên ngoài cũng chẳng hiểu biết, nên không có Chiếu. Để giúp đỡ người khác thì chính mình phải Tịch Chiếu, chính mình phải như bất động. Hiểu rõ ràng, rành rẽ cảnh giới bên ngoài thì mới có thể chỉ dạy người khác. Chính mình như như bất động thì mới chẳng bị người khác lôi kéo, cho nên được đại tự tại. Chỉ có Chiếu không có Tịch mà độ chúng sanh và tiếp xúc chúng sanh, hễ tiếng tăm, lợi dưỡng đưa tới thì tham, sân, si, mạn nẩy sanh, sẽ bị chúng sanh lôi kéo. Ứng Hóa Thân là Tha Thụ Dụng Thân nhằm giúp đỡ người khác.

“Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị” (Thật Tướng không hai, mà cũng chẳng không hai). Vũ trụ vạn hữu, vốn là bình đẳng nhất tướng, trong ấy không có sai biệt. Kinh Kim Cang nói đại thiên thế giới là “nhất hiệp tướng”[11]. Vật chất cơ bản của vạn vật chỉ là một, chỉ là công thức cấu tạo khác nhau. Vì vậy, muôn pháp trong vũ trụ là bình đẳng, đều là một hiệp tướng, không sai biệt. Nếu các nhà khoa học đọc kinh Phật, nhất định họ sẽ bội phục Thích Ca Mâu Ni năm vóc sát đất.

          Trông thấy chân tướng của sự thật bình đẳng vô nhị, mà nếu vẫn khởi phân biệt, chấp trước, thị phi, thiện ác thì lầm lẫn quá đỗi rồi! Có kẻ hoài nghi: “Nếu vạn pháp đã là bình đẳng, chẳng hai, cớ sao Phật nói chân tâm và vọng tâm?” Hãy nên biết: Phật nói chân tâm và vọng tâm chính là nói phương tiện. Nếu nói chân thật, sẽ chẳng mở miệng. Những điều Ngài đã nói trong suốt bốn mươi chín năm đều là nói phương tiện. Phải từ lời nói phương tiện mà ngộ nhập chân thật, chớ nên chấp vào những danh tướng đức Phật đã nói. Nghe kinh phải nghe bằng cái tâm thanh tịnh, chớ nên suy tưởng. Hễ suy tưởng thì ngộ môn (sự ngộ giải của người nghe) liền bị đóng lại. Nếu học tập Phật pháp giống như học pháp thế gian thì sẽ biến thành “Phật học”, chứ không phải là “học Phật”. Học Phật phải khai ngộ, phải học cái tâm thanh tịnh, phải học Tịch Chiếu. Trước hết, nói ra nguyên lý, sau đấy mới thực hiện trên phương diện sự tướng.

“Thể” là Thật Tướng, tức tâm tánh. “Y” là y báo, “chánh” là thân thể. Pháp là Pháp Thân, Báo là Báo Thân, cũng do tự tánh biến hiện. Tự là chính mình, Tha là người khác. Tự Tha bất nhị. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ chính mình. “Năng thuyết” (người nói kinh này) là Thích Ca Mâu Ni Phật, “sở thuyết” (những điều được nói đến) là A Di Đà Phật, tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ. “Năng độ” (người hóa độ) là chư Phật, “sở độ” (kẻ được hóa độ) là chúng sanh. “Năng tín” là cái tâm của ta, “sở tín” là pháp môn này. “Năng nguyện” là sự hâm mộ, mong mỏi của chính mình, “sở nguyện” là Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Năng trì” là thân, khẩu, ý, thân lễ Phật, miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, “sở trì” là một câu Phật hiệu “nam-mô A Di Đà Phật”. “Năng sanh” là điều kiện để có thể vãng sanh, tức Tín – Nguyện – Hạnh; “sở sanh” là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ở Tây Phương có bốn loại Tịnh Độ, nhưng bốn loại này dung hợp thành một. Đã sanh về một cõi thì sẽ sanh trong hết thảy cõi, chỉ có Tây Phương thù thắng như vậy! “Năng tán” là mười phương chư Phật Như Lai, “sở tán” là Tây Phương Tịnh Độ. Những điều này đều là Thật Tướng, đức Phật thuyết pháp cho chúng ta đã dựa vào một điều duy nhất, tức là Thật Tướng.

Ở đây, tôi lại nói rõ cùng các vị đồng tu. Lý này thông với hết thảy tất cả các kinh Đại Thừa, đó gọi là “một kinh thông, hết thảy các kinh thông”. Chẳng phải chỉ như vậy, hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian cũng đều có thể thông đạt; bởi lẽ, không có một pháp nào chẳng do tâm tánh biến hiện ra. Bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo có trí huệ viên mãn, không gì chẳng biết, không gì chẳng thể. Hiểu rõ lý này, cái tâm tu học sẽ ổn định, chẳng còn suy nghĩ Thiên Thai cũng rất hay, hoặc là Thiền Tông cũng khá lắm, đều muốn học hết. Tông Môn, Giáo Hạ, bất cứ tông phái nào nếu có khế nhập thì đều có thể thành tựu, nhưng ắt cần phải chuyên tu. Chuyên tu sẽ dễ thành tựu! Từ xưa, những bậc đại đức tuy tu những pháp môn khác nhau, nhưng phương hướng, mục tiêu giống nhau, đôi bên khen ngợi lẫn nhau. Con người học Phật hiện thời thường là khen ngợi bản thân, hủy báng người khác[12].

Phụ Chú:

– Tịch: Vắng lặng, bất biến, diễn tả đặc tánh không bị biến đổi bởi trần cảnh hay bất cứ nguyên nhân nào của bản thể (tạm gọi là Thật Tướng).

– Chiếu: Khả năng nhận biết muôn pháp và hết thảy sự vật rõ ràng.

– Chân tâm (Thật Tướng, Chân Như, bổn tánh v.v…) bất biến nhưng luôn nhận biết sự vật không sai lầm, không mê hoặc, tuy nhận biết sự vật rõ ràng nhưng không vướng mắc, không bị sự vật ô nhiễm. Do chân tâm vượt ngoài đối đãi, thấy nó có Chiếu hay có Tịch đều chỉ là nhìn từ một khía cạnh, không thể nói chân tâm là Tịch hay Chiếu được. Tuy vậy, chân tâm luôn trọn đủ ý nghĩa Tịch và Chiếu, nên chân tâm cũng chẳng thể tách rời Tịch và Chiếu được. Điều này diễn tả bằng câu “bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến” hoặc nói như Yếu Giải “phi tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng tịch” (chẳng phải tịch, chẳng phải chiếu, nhưng lại vừa tịch vừa luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch).

– Những danh từ như Thường  Tịch  Quang,  Pháp  Thân,  Báo  Thân,

Ứng Thân, Thụ Dụng Thân, Ứng Hóa Thân là những danh từ được đặt ra nhằm diễn tả một khía cạnh nào đó của Thật Tướng, vì tất cả đều do Thật Tướng biến hiện.

– Nhấn mạnh đến khía cạnh “tùy duyên nhưng bất biến” của Thật Tướng, ta có Thường Tịch Quang Độ. Tuy gọi là cõi, nhưng đây chỉ là cảnh giới chứng đắc của bậc Pháp Thân đại sĩ và chư Phật, chứ không phải là một cõi về mặt sự tướng. Tâm các vị ấy thấu hiểu vạn pháp, nhận biết vạn pháp, nhưng không ô nhiễm bởi phân biệt, chấp trước, suy lường, thành kiến, có thể sự sự vô ngại, nên gọi cảnh giới ấy là Thường Tịch Quang. Do vậy, Yếu Giải ghi “Chiếu nhi Tịch, cưỡng danh Thường Tịch Quang độ” (Tùy duyên nhưng vẫn bất biến thì cưỡng gọi là cõi Thường Tịch Quang).

– Nhấn mạnh đến khía cạnh “bất biến nhưng tùy duyên” của Thật Tướng, thì gọi là Pháp Thân. Pháp Thân không có hình tướng, nó là Lý Thể. Lý ấy bất biến, thường hằng, dung thông muôn pháp, tồn tại trong vạn pháp. Chúng sanh đang mê thì Pháp Thân vẫn không mất, chư Phật chứng quả viên mãn, Pháp Thân vẫn không tăng thêm. Pháp Thân có thể lưu lộ vô lượng tánh đức (nên gọi là tùy duyên). Do vậy Yếu Giải ghi: “Chiếu nhi Tịch, cưỡng danh Thanh Tịnh Pháp Thân”.

– Nếu từ Dụng nhìn ngược lại Thể, thì Thật Tướng có tác dụng vô biên không chướng ngại, nhưng không vì thế mà nó biến đổi nên gọi là Pháp Thân, nhấn mạnh đến ý nghĩa “vô tướng” của Thật Tướng. Do vậy, sách Yếu Giải ghi “Chiếu tịch, cưỡng danh Pháp Thân” nhấn mạnh ý nghĩa Tịch.

– Lại từ Thể nhìn ra Dụng, chú trọng nơi Dụng. Thật Tướng tuy bất biến, nhưng có vô biên tác dụng, tác dụng ấy là trí huệ tràn đầy, không gì chẳng biết, giống như gương tuy rỗng rang mà vẫn có thể chiếu soi vô ngại tất cả sự vật. Thật Tướng vô tướng (rỗng rang, không lệ thuộc hình tướng), nhưng không trở ngại tướng nào, tràn đầy trí huệ, nhấn mạnh ý nghĩa Thật Tướng tuy vô tướng nhưng chẳng phải là chẳng có tướng gì (có tướng, nhưng không vướng mắc, trệ ngại nơi hình tướng) nên sách Yếu Giải bảo “Tịch chiếu cưỡng danh Báo Thân”,  tức nhấn mạnh vào ý

nghĩa Chiếu.

– Tiếp đó, nhìn vào phương diện đức năng, tức vô biên phẩm đức (công dụng, đặc tánh) của Thật Tướng để luận định. Xét theo Lý thì những đức năng ấy gọi là Tánh Đức. Do Thật Tướng bất biến, nhưng có vô lượng vô biên đức năng, ai cũng sẵn đủ vô lượng vô biên các đức năng ấy. Nhấn mạnh đến khía cạnh “xét theo Lý (tức theo chân lý tuyệt đối), ai cũng có sẵn vô lượng đức năng trong tự tánh”, sự thật ấy tạm gọi là Pháp Thân, nên sách Yếu Giải ghi “Tánh đức tịch chiếu, danh Pháp Thân”.

– Tuy sẵn đủ đức năng nơi tự tánh, nhưng do đang mê hoặc, chấp trước, chúng sanh không thể thụ dụng được, phải tu tập để trừ khử vọng tưởng, chấp trước, phân biệt (kinh diễn tả điều này là phiền não, hoặc Tam Hoặc v.v..), hòng khôi phục đức năng. Đức năng do tu tập mà đạt được từng phần gọi là Tu Đức. Do tu tập, sẽ dần dần khôi phục trọn vẹn đức năng, các đức năng ấy chính là Dụng của Thật Tướng, vô biên lực dụng, không gì chẳng hiểu thấu nhưng chân tâm bất biến, bất biến nhưng vẫn tùy duyên. Nhấn mạnh đến sự khôi phục đặc tánh “tùy duyên nhưng bất biến” sau khi tu tập viên mãn, chứng đắc Phật Quả nên gọi là Báo Thân. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “Tu Đức chiếu tịch, danh Báo Thân”.

– Xét riêng phương diện Chiếu, vận dụng lực dụng của Chiếu để độ sanh, nhấn mạnh đến khía cạnh Giác Tha hay Giác Hạnh Viên Mãn nơi quả vị Phật mà có giả danh là Thụ Dụng Thân và Ứng Hóa Thân.

– Thụ Dụng Thân chính là tên gọi khác của Báo Thân, chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh lực dụng vô ngại, được khôi phục trọn vẹn sau khi tu tập viên mãn, chứng nhập bản tánh chân thường bất biến (Tịch) của Thật Tướng, do vậy độ sanh không điều kiện, không gì chẳng thể làm, không gì chẳng thể biết, không chúng sanh nào chẳng độ. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “Tu Đức tịch chiếu, danh Thụ Dụng Thân”.

– Tuy độ sanh vô tận, nhưng không thấy có chúng sanh để độ, chúng sanh và mình cùng một thể, thuyết pháp không gián đoạn nhưng không thấy có người nói pháp, không có người nghe pháp, không có pháp để nói v.v… Nói cách khác, đấy là “tùy duyên nhưng bất biến”, dẫu độ sanh nhưng chẳng rời tự tánh, là cảm ứng đạo giao, giống như gõ vào chuông thì chuông bèn ngân. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “Tu Đức chiếu tịch, danh Ứng Hóa thân”.

[1] Duyên lự: Gọi đủ là “tâm duyên niệm lự”. Đây là từ ngữ diễn tả sự phân biệt, chấp trước của thức thứ sáu. Do tâm (vọng tâm) tiếp xúc (duyên) trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp), khởi lên suy nghĩ, so đo, tính toán, yêu ghét v.v… Những ý niệm đó đều gọi chung là “tâm duyên niệm lự”.

[2] Thể ở đây có thể tạm hiểu như khái niệm bản thể trong triết học, tức thực chất của một sự vật, bản tánh chân thật của một sự vật. Có thể dùng một tỷ dụ để tạm hiểu như thế này. Các món như xuyến, vòng, bông tai, nhẫn, lắc, dây chuyền v.v… đều chế bằng vàng, thì vàng là Thể của những vật đó. Những vật đó là Tướng của vàng. Tuy tướng khác nhau (ta có các món trang sức khác nhau), nhưng Thể chỉ một (tức là chúng đều là vàng). Các pháp, ngay cả các kinh Đại Thừa thiên sai vạn biệt nhưng Thể của chúng chỉ là một, cái Thể ấy tạm gọi bằng Thật Tướng. Ngay cả chữ Thật Tướng cũng chỉ là giả danh, tạm đặt ra để nhằm diễn tả Thể mà thôi.

[3] Nhất Nguyên Luận (Monism): Học thuyết cho rằng thế giới chỉ từ một cội nguồn mà có. Thuyết này còn gọi là Bản Nguyên Luận. Quan điểm duy vật cho rằng cội nguồn của thế giới, vạn vật chỉ là do vật chất, còn duy tâm cho cội nguồn của thế giới là tinh thần.

Nhị Nguyên Luận (Dualism) cho rằng vũ trụ do hai yếu tố căn bản, tồn tại độc lập tạo thành. Điển hình của thuyết này như Descartes cho rằng vũ trụ do hai nguyên tố là tinh thần và vật chấp hợp thành, hoặc Bái Hỏa Giáo ( Zoroastrianism) cho rằng thế giới do hai thế lực quang minh và hắc ám tạo thành v.v…

Đa Nguyên Luận (Pluralism) quan niệm thế giới do nhiều nguyên tố bất đồng tạo thành. Quan niệm này đã có từ cổ Hy Lạp, chẳng hạn như Empedocles cho thế giới do nước, không khí, gió và lửa tạo thành.

[4] [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa Phù]: Kinh Lăng Nghiêm quyển hai, có câu “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, ý nói: Hết thảy tướng huyễn hóa trong thế gian đều do một niệm vọng tâm của chúng ta huyễn hiện. Câu này chỉ rõ các pháp do nhân duyên sanh, đã không có thực thể, chỉ có giả danh, giả tướng, cho nên bản thể của chúng là không. Tướng huyễn hóa tuy giả, nhưng tánh nó vốn chân. Tánh ấy, xét về Thể, là vô tướng, nhưng có thể hiện ra các tướng. Tánh ấy là chỗ nương tựa cho các tướng. Hết thảy tướng đều do Tánh biến hiện. Tánh là chủ thể biến hiện (Năng Biến), Tướng là đối tượng được biến hiện (Sở Biến). Tánh là chân thật, không hư vọng, cho nên đặt tên là Thật Tướng. Thật Tướng vô tướng, chẳng phải là không có tướng. Tánh tuy chẳng có tướng, nhưng có thể hiện tướng. Hết thảy tướng đều duyên theo Tánh để khởi, nên nói là “vô bất tướng” (chẳng phải là hoàn toàn không có tướng gì). Đây chính là nhằm biểu thị tướng trạng chân thật của Tánh thể (bản thể của Tánh). Do vậy, Không và Hữu chẳng hai, Tánh và Tướng viên dung, cũng chính là nghĩa lý đã được dạy trong Tâm Kinh: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Vì thế, pháp sư nói: “Nếu tâm thanh tịnh đạt đến mức kha khá thì mới có thể lãnh hội Chân Không chẳng phải là Không, Diệu Hữu chẳng phải là Có”. Các đồng tu sơ cơ đối với câu nói này có thể chẳng hiểu rõ trọn vẹn, nên tôi đặc biệt thêm vào mấy câu để quý vị tham khảo.

[5] Hai cái mười vạn tám ngàn (2×10.800 = 21.600). Vì một giây có bốn lần khảy ngón tay, mỗi khảy ngón tay là 60 sát-na, mỗi sát-na có 900 lần sanh diệt, vì thế: 4x60x900=21.600 lần. 

[6] Theo cách giải thích của tông Thiên Thai, “như thị” trong Thập Như Thị diễn tả ý nghĩa hết thảy đều viên dung, xét về bản thể là một. Hiểu đơn giản, Tướng là sự biểu hiện, sự tướng; Tánh là không biến đổi, tức bản tánh nội tại của vật. Thể là bản chất thật sự của Tánh và Tướng (Tánh và Tướng chỉ là hai khía cạnh của Thể, tùy theo nhìn từ góc độ nào), Lực là tác dụng, năng lực của Thể, Tác là biểu hiện, tạo tác của Lực, Nhân là nguyên nhân trực tiếp, Duyên là nguyên nhân gần giúp cho Nhân thành tựu, Bổn là tướng trạng ban đầu, Mạt là quả báo cuối cùng. Đẳng là bình đẳng. Nói cách khác, mười món như thị này nói lên trọn vẹn Thể, Tướng, Dụng của các pháp trong thế gian, không thiếu sót một điều nào. Tất cả hữu tình chúng sanh nói quy nạp đều thuộc về mười pháp giới. Trong mười pháp giới, mỗi pháp giới lại có mười pháp giới, nhân lên thành một trăm pháp giới nên gọi là Bách Giới. Con số một trăm này tượng trưng cho ý nghĩa viên mãn, trùng trùng vô tận. Trong một trăm giới đó, mỗi một pháp đều trọn đủ mười món như thị, nên thành ra một ngàn món như thị (thiên như). Do vậy, “bách giới thiên như” là một từ ngữ phiếm chỉ toàn bộ các pháp và mọi đặc tánh, mọi khía cạnh của chúng.

[7] Theo Viên Anh pháp sư, chữ “vắng lặng” (tịch tĩnh) ở đây hàm nghĩa bất biến. Chiếu hàm nghĩa tùy duyên. Tịch là nói tánh của Thật Tướng, bất biến hàm nghĩa nơi thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Nói Tịch hay nói Chiếu đều là phân biệt, còn thuộc trong vòng đối đãi, nên mới nói “Thể chẳng phải là Tịch, chẳng phải là Chiếu”.

[8] Để dễ hiểu câu này, xin tạm mượn một cách giải thích của Viên Anh pháp sư: “Bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng luôn bất biến”. Sư còn dùng một hình ảnh như sau: Thể của chân tâm giống như tấm gương. Gương không bị xao động bởi bất cứ hình ảnh nào đối trước nó, người Hồ, người Hán, vật xấu, vật đẹp, gương không phân biệt (đó là Tịch, là “bất biến”), nhưng vật gì soi trước gương, gương đều hiện bóng (đó là chiếu, là tùy duyên). Tức là gương không phân biệt, không xao động bởi hình ảnh, nhưng không mất công năng soi bóng. Tuy soi bóng muôn hình vạn tượng, bản chất của gương không bị thay đổi. Tổ Ngẫu Ích nói “tịch nhi phục chiếu, chiếu nhi hằng tịch” nhằm nhấn mạnh hai khía cạnh này tồn tại đồng thời, không tách rời nhau, mà cũng chỉ là nhìn trên phương diện hình tướng vì Thật Tướng chẳng thể nào diễn tả, suy lường được.

[9] Chữ “tâm duyên” ở đây hàm nghĩa dùng tâm ý thức phân biệt để suy lường.

[11] Thế giới do các vi trần hợp thành. Nếu tạm vận dụng Vật Lý Học cho dễ hiểu thì “vi trần” là những hạt vật chất cơ bản (elementary particles), nhỏ hơn nguyên tử rất nhiều. Bất cứ vật chất nào trong thế gian đều do vi trần hợp thành nên thế giới không thật sự có (vì do các vi trần hợp thành). Các vi trần nếu chia chẻ ra đến tận cùng thì chúng cũng chẳng còn có gì. Vì thế gọi thế giới là Nhất Hiệp Tướng. Nếu cho rằng chúng thật sự không có thì lại trở thành chấp Không, vì thế giới có hiện hữu (tuy là giả tướng).

1. Thích Danh (giải thích tên kinh): A Di Đà Phật, Vô Lượng Quang Thọ.

2. Biện Thể (biện định về Thể): Tây Phương quốc độ, y chánh trang nghiêm.

3. Minh Tông (nêu rõ Tông): Tín nguyện trì danh, nhất thừa diệu quả.

4. Minh lực dụng (thuật lực dụng): Vãng sanh bất thoái, chứng trọn vẹn bốn cõi.

5. Phán giáo tướng (phán định giáo tướng): Tối cực viên đốn, thích hợp cả ba căn.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký

Phần 1

佛說阿彌陀經要解講記

Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch kinh

姚秦三藏法師鳩摩羅什譯

Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí Húc chú giải vào đời Thanh

清西有沙門蕅益智旭解

Pháp sư Tịnh Không giảng thuật

淨空法師講述

Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chép

劉承符居士記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)

Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong

– [TẬP 16]: Pháp Môn Tịnh Độ Là Pháp Đốn Vượt Tam Giới

– [TẬP 15]: Tín Nguyện Trì Danh Trọn Vẹn Hết Thảy Pháp Môn

– [TẬP 14]: Giới – Định – Huệ Và Văn – Tư – Tu

– [TẬP 13]: Chúng Sanh Và Phật Bình Đẳng

– [TẬP 12]: Bố Thí – Lục Độ

– [TẬP 11]: Nhìn Cho Thấu, Buông Cho Xuống

– [TẬP 10]: Tín – Giải – Hành

– [TẬP 9]: Vì Sao Gọi Tịnh Độ Là Diệu Môn?

– [Tập 8]: Phương Pháp Tu Hành Các Tôn Giáo Cao Nhất Lên Cõi Trời, Không Vượt Thoát Khỏi Tam Giới

– [TẬP 7]: Phật Pháp Diệt Tận Đặc Biệt Lưu Lịa Kinh A Di Đà Thêm Một Trăm Năm.

– [TẬP 6]: Vãng Sanh Bất Thoái

– [TẬP 5]: Pháp Khó Tin

– [TẬP 3]: Pháp Môn Bất Tử

– [TẬP 2]: Chân Tướng Của Vũ Trụ Nhân Sinh

– [TẬP 1]: Lời Tựa và Nội Dung