Top 8 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Tên Vân Du Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Welovelevis.com

Bật Mí Ý Nghĩa Tên Vân Anh, Đoán Vận Mệnh Tên Vân Anh Chuẩn 99%

Ý nghĩa tên Vân Anh?

Ý nghĩa tên Vân Anh là gì?

Ý nghĩa tên Vân: Trong tiếng Hán Việt, chữ Vân có nghĩa là đám mây, gợi đến sự nhẹ nhàng, bồng bềnh, ung dung tự tại của một cô gái xinh đẹp.

Ý nghĩa tên Anh: Trong nghĩa Hán Việt chữ “Anh” là người tài giỏi, bao hàm cả sự nổi trội, thông minh, giỏi giang trên nhiều phương diện, vì vậy tên “Anh” thể hiện mong muốn tốt đẹp của cha mẹ để con mình giỏi giang, xuất chúng khi được đặt vào tên này.

Tên Vân Anh trong tiếng nước ngoài là gì?

Vận mệnh tên Vân Anh có tốt không?

Tên Vân Anh có tốt không? Để xét vận mệnh người tên Vân Anh cần đánh giá dựa trên ngũ cách: Thiên Cách, Nhân Cách, Địa Cách, Ngoại Cách, Tổng Cách. Cụ thể:

Thiên Cách: Đại diện cho cha mẹ, bề trên, các vị tiền bối. Thiên Cách của tên Vân Anh âm dương hòa hợp, cả nhà hoà thuận, giàu sang, sức khoẻ tốt, được phúc lộc, sống lâu, đây là vận cách phú quý vinh hoa

Nhân Cách: Đại diện cho vận mệnh của gia chủ. Nhân cách của tên Vân Anh sức khỏe tốt, giàu sang, phúc lộc dồi dào.

Địa Cách: Đại diện cho bề dưới như người vợ con, người ít tuổi hơn. Địa cách của tên Vân Anh là người có số tài vận trôi nổi, không nhất định, số tài không gặp vận. Nếu phối trí tam tài thích hợp thì có thể được thuận lợi với hoàn cảnh mà sản sinh anh hùng hào kiệt, học giả vĩ nhân, lên nghiệp lớn

Ngoại Cách: Đại diện cho những mối quan hệ ngoài xã hội, bạn bè, đồng nghiệp. Nhìn chung ngoại cách của tên Vân Anh khá tốt, gặp bạn bè đồng nghiệp tốt, hỗ trợ trong cả công việc, cuộc sống.

Tổng Cách: Nhìn chung, tên Vân Anh được đánh giá khá tốt. Cha mẹ, anh chị em có số được nhờ. Gia chủ gặp nhiều may mắn, tài lộc dồi dào. Tuy nhiên, xét về địa cách không được hoàn hảo, cần tu tâm tích đức, năng làm việc tốt để cải thiện.

*Thông tin bài viết mang tính tham khảo. Hi vọng rằng qua bài viết này các bậc phụ huynh đã có thể nắm được ý nghĩa tên Vân Anh, vận mệnh của tên Vân Anh có tốt không?. Chúc các bé và cả gia đình luôn mạnh khỏe, gặp nhiều may mắn.

Ý Nghĩa Của Tên Khánh Vân

Khánh Vân (Tên xưng hô)

Khánh Vân là tên dành cho nữ. Nguồn gốc của tên này là Việt. Ở trang web của chúng tôi, 74 những người có tên Khánh Vân đánh giá tên của họ với 4.5 sao (trên 5 sao). Vì vậy, họ dường như cảm thấy rất thỏa mãn. Người nói tiếng Anh Anh có thể gặp rắc rối trong vấn đề phát âm tên này. Có một biệt danh cho tên Khánh Vân là “Khong”. Có phải tên của bạn là Khánh Vân? Xin hãy trả lời 5 câu hỏi về tên của bạn để bổ sung vào thông tin sơ lược này.

Ý nghĩa của Khánh Vân

Nghĩa của Khánh Vân là: “Khánh có nghĩa là vui vẻ, hạnh phúc, chúc mừng (khánh hỷ), gợi lên sự cao quý. Vân có nghĩa là mây, thường gợi cảm giác nhẹ nhàng Là một cái tên nữ giới phổ biến“.

Đánh giá

74 những người có tên Khánh Vân bỏ phiếu cho tên của họ. Bạn cũng hãy bỏ phiếu cho tên của mình nào.

tôi biết tên tiếng anh và tên tiếng pháp của tôi. bạn nào cóa cái tên hay thì gừi cho tôi tham khảo xin cảm ơn mail: khanhvankttctn@gmail.com

Nguyễn Du Khóc… Tố Như ?

Bài tựa Truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim có đoạn:

– Ấy là cái tâm sự của tiên sinh (Nguyễn Du) đã đem gửi vào tập Truyện Thúy Kiều để hậu thế ai có con mắt tinh đời, thì soi xét đấy, mà thở dài thay cho một người tài tình, tiết nghĩa, sinh không gặp thời, phải đày đọa ở chốn phong trần, để tấm lòng son sắt mai một đi mất. Bởi thế nên khi tiên sinh sắp mất, có khẩu chiếm hai câu rằng:

Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố-Như

(Không biết hơn ba trăm năm sau, Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)

Vậy nay ta đọc Truyện Kiều, mà có “khóc người đời xưa”, thì những người thức giả hẳn không ai cho là “khéo dư nước mắt” nữa(1).

Trần Trọng Kim nhắc lại giai thoại Nguyễn Du “khẩu chiếm” hai câu thơ lúc sắp mất của cụ nghè Nguyễn Mai, thuộc thế hệ thứ mười họ Nguyễn Tiên Điền, kể cho Lê Thước và Phan Sĩ Bàng nghe năm 1924.

Năm 1943, Đào Duy Anh khám phá ra hai câu thơ này là của bài Độc Tiểu Thanh ký, nằm trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du. Thì ra giai thoại Nguyễn Du “khẩu chiếm” chỉ là chuyện cụ nghè Nguyễn Mai bịa đặt để tâng bốc tổ tiên.

Dù sao thì Nguyễn Du cũng đã để lại cho hậu thế hai câu thơ… mới lạ, thậm chí… khó hiểu. Có lẽ Nguyễn Du là người đầu tiên tự hỏi đời sau ai sẽ khóc mình? (Tố Như là tên tự của Nguyễn Du).

Bài thơ Độc Tiểu Thanh ký được Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian ông làm quan ở Bắc Hà (1802 – 1804).

Hồ-Tây cảnh đẹp hoá gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương. Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng?             (Bản dịch của Vũ Văn Tập)

Tiểu Thanh là một người con gái có tài, có sắc, sống vào đầu đời Minh. Nàng họ Phùng lấy lẽ một người cũng tên là Phùng, vì tránh tên chồng, nên gọi là Tiểu Thanh. Vợ cả ghen, bắt ở một ngôi nhà trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ, chẳng bao lâu buồn mà chết. Lúc bấy giờ mới mười tám tuổi. Nay ở Cô Sơn (Chiết Giang) vẫn còn mộ.

Tiểu Thanh có một tập thơ nói tâm sự của mình. Lúc nàng chết rồi, vợ cả ghen, lấy đốt đi. Còn sót một số bài, người ta chép lại gọi là Phần dư cảo.

Có thuyết nói tính từ khi Tiểu Thanh mất cho đến lúc Nguyễn Du làm bài thơ Độc Tiểu Thanh ký là được ba trăm năm(2).

Nhiều nhà nghiên cứu đã dựa vào câu thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (thiên hạ ai người khóc Tố Như?) để cho rằng Nguyễn Du đã nói về mình.

– Hà Huy Giáp có nhận xét:

Hơn ba trăm năm sau khi Tiểu Thanh, người con gái tài sắc đất Quảng Lăng mất, Nguyễn Du trong một bài thơ nói về nàng đã ngậm ngùi than thở: “Văn chương không có số mệnh gì mà sao người đời phải bận lòng đến những bài thơ còn sót lại sau khi đốt?” Rồi nhà thơ lớn của dân tộc ta đặt câu hỏi về mình:

Ba trăm năm lẻ về sau nữa, Thiên hạ ai người khóc Tố Như?

Trong xã hội phong kiến xưa, Tiểu Thanh phải đợi đến hơn ba trăm năm sau mới có một người tri kỷ như Nguyễn Du khóc mình, cho nên câu hỏi của Nguyễn Du không phải là không duyên cớ(3).

– Bàn về triết lí Truyện Kiều, Hoàng Ngọc Hiến cũng dẫn hai câu thơ để đi đến kết luận:

Triết lý của Nguyễn Du quả là không tương xứng với tác phẩm thiên tài của Nguyễn Du.

Tác giả Truyện Kiều vẫn là một trí tuệ lớn, không phải là “trí tuệ của trí tuệ” mà đây là “trí tuệ của trái tim”.

Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Câu hỏi đau đớn và tha thiết này bao hàm một nỗi lo và ít nhiều hy vọng. Ngày nay chúng ta có thể hiểu được nỗi lo và niềm hy vọng của nhà thơ. Càng ngày càng thấy không thể quên được cái “tình” của Nguyễn Du, còn cái “lý” của Nguyễn Du, cuộc sống hiện tại đã khiến mỗi chúng ta thấy rõ là vô lý(4).

Truyện Kiều còn đọng lại trong lòng chúng ta cho đến nay nỗi đau nhân tình của một tâm hồn u ẩn. Có lẽ ít có nhà thơ đã gửi gấm vào tác phẩm mình một tâm sự khó hiểu như Nguyễn Du, khóc người rồi lại đặt câu hỏi về mình:

Không biết hơn ba trăm năm sau, Thiên hạ ai người khóc Tố Như?(5)

Tuy nhiên…

Có đúng là Nguyễn Du khóc người và đặt câu hỏi về mình như các học giả nhận xét không?

Nguyễn Du thương nhớ nàng Tiểu Thanh, một cô gái trẻ đẹp, biết làm thơ, cũng như Nguyễn Du thương xót nàng Kiều xinh đẹp, đàn hay, là điều rất dễ hiểu. Chẳng cần bàn nhiều.

Nhưng, Nguyễn Du là một nhà nho, một ông quan “dòng dõi một nhà thế phiệt trâm anh đệ nhất trong nước lúc bấy giờ” mà lại băn khoăn tự hỏi đời sau “thiên hạ ai người khóc Tố Như”, ai sẽ khóc mình thì quả thật là điều khó hiểu, dễ gây thắc mắc.

Khó hiểu vì Nguyễn Du đã từng “dùi mài kinh sử” như bất cứ ai theo nghiệp “lều chõng”. Ông thuộc lòng “Tứ thư, Ngũ kinh”, thông suốt những lời dạy của đức thánh Khổng “vạn thế sư biểu”. Ông quên hết rồi sao?

Đức Khổng Tử nói rằng: “Chớ lo mình không có chức vị; chỉ lo mình chẳng đủ tài đức để lãnh lấy chức vị mà thôi. Chớ lo người ta chẳng biết mình; chỉ cầu cho mình trở nên giỏi giắn và có đạo hạnh đặng đáng cho người ta biết vậy thôi” (Luận ngữ, chương Lý Nhân).

Đức Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử buồn vì mình không đủ tài đức; chớ chẳng buồn vì người ta chẳng biết mình”. (Luận ngữ, chương Vệ Linh Công).

Đức Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử trông cậy ở mình; kẻ tiểu nhơn trông cậy ở người”. (Luận ngữ, chương Vệ Linh Công)(6).

– Nguyễn Tố-Như tiên sinh không những đã hiểu rõ cái tư tưởng của Phật học ở trong Truyện Kiều mà thôi, tiên sinh còn làm bài Văn tế thập loại chúng sinh cũng theo đúng cái tư tưởng ấy. Vậy tôi (Trần Trọng Kim) dám chắc rằng tiên sinh là một người học rộng, tinh thông cả Nho học và Phật học(7).

Đạo Phật có thuyết “vô thường, vô ngã”, giải thích rằng mọi vật đều thay đổi từng sát na. Không có cái gì, kể cả “cái tôi, cái ta” là trường tồn, bất biến. Chúng sinh khổ vì bám víu vào bản ngã, bám víu vào “cái tôi, cái ta”. Một người tinh thông Phật học như Nguyễn Du mà lại thắc mắc đời sau ai sẽ khóc “cái tôi” của Tố Như sao?

Chẳng lẽ Nguyễn Du lại tự kiêu, tự đại đến mức quên cả giáo lý của Phật, của Khổng Tử? Nếu Nguyễn Du chưa “phá giới”, không coi thường Khổng giáo thì câu thơ “khấp Tố Như” phải được hiểu như thế nào?

Xin bàn về cụm từ “khấp Tố Như”.

Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đều tự động viết hoa hai chữ Tố Như và hiểu rằng đó là tên tự của Nguyễn Du.

1) Bản thân chữ Hán không có chữ hoa, chữ thường, chấm, phẩy v.v. như chữ quốc ngữ. Chữ hán viết không phân biệt danh từ riêng (tên người, tên đất) với danh từ chung.

Vậy thì trước hết hãy thử viết “thiên hạ hà nhân khấp tố như” một cách bình thường. “Tố như” không viết hoa, không còn được hiểu là tên tự của Nguyễn Du.

Nhưng, “khấp tố như” là… khóc ai, khóc cái gì?

2) Thi nhân ngày xưa có thú chơi chữ bằng cách chiết tự. Một thí dụ được nhiều người biết là nhà của họ Hồ (Hồ Xuân Hương) được đặt tên là Cổ Nguyệt đường. Chữ Hồ chiết tự thành chữ Cổ + chữ Nguyệt.

Nguyễn Du cũng có tài chiết tự. Mọi người còn nhớ trong Truyện Kiều có hồi Sở Khanh viết giấy hẹn ngày đưa Thúy Kiều đi trốn.

Mở xem một bức tiên mai, Rành rành “tích việt” có hai chữ đề Lấy trong ý tứ mà suy: “Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?”

Đào Duy Anh giải thích: Hai chữ “tích việt” được chiết tự thành “trấp + nhất + nhật, tuất + tẩu”, nghĩa là “ngày hai mươi mốt, giờ tuất thì đi trốn”(8).

Trần Trọng Kim giải thích hơi khác: xem trong truyện tiểu thuyết (của Tàu) thì chữ “tích việt” cắt nghĩa là (trấp nhất nhật tuất thì việt tường tương kiến, nguyên văn viết bằng chữ hán) ngày 21, giờ tuất, trèo qua tường sang với nhau, chứ không phải là (trấp nhất nhật tuất thì tẩu) ngày 21 giờ tuất thì trốn. Vì lúc bấy giờ Kiều mới gặp mặt Sở Khanh, sau cách hai ngày nữa Sở Khanh mới rủ Kiều đi.

Đọc truyện Kiều của Nguyễn Du thì thấy giải thích của Đào Duy Anh đúng và đầy đủ hơn giải thích theo truyện Tàu của Trần Trọng Kim.

Xin trở lại trường hợp “khấp tố như”.

Rất có thể là chữ như cũng đã được Nguyễn Du chiết tự:

Như = Nữ + Khẩu. Tố như chiết tự thành tố nữ khẩu.

Tố nữ là người con gái đẹp. Phàm cái gì nhan sắc mộc mạc cũng gọi là tố cả (Hán Việt tự điển, Thiều Chửu). Tranh dân gian Đông Hồ, tranh Oger, hay tranh trong sách của Durand đều có tranh Tố nữ.

Tố nữ khẩu là “miệng người con gái đẹp”. Hiểu theo nghĩa rộng là “những lời nói của người con gái đẹp”. Nguyễn Du muốn ám chỉ những câu thơ giãi bày tâm sự của nàng Tiểu Thanh xinh đẹp chăng?

Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp “tố nữ khẩu”?

Ba trăm năm sau khi Tiểu Thanh chết, Nguyễn Du ngậm ngùi đọc những lời tâm sự của nàng trong Phần dư cảo. Bài thơ Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du trước sau chỉ xoay quanh chuyện “hồng nhan bạc mệnh”. Nguyễn Du không vô duyên, đang nhớ Tiểu Thanh lại quay sang thắc mắc đời sau ai sẽ khóc mình.

Nếu đúng là Nguyễn Du, tự Tố Như, đã chiết tự “tố như” thành “tố nữ khẩu” thì… xin ngả nón bái phục!

N.D (SHSDB33/06-2019)

…………………………………………… (1) Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Truyện Thúy Kiều, Tân Việt, in lần  thứ tám, tr. 16. (2) Thơ chữ hán Nguyễn Du, Văn Học, 1965, tr. 161-163.   (3) Hà Huy Giáp, Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du,  Khoa Học Xã Hội, 1967, tr.169. (4) Hoàng Ngọc Hiến, Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du,  sđd, tr. 284-285. (5) Hà Huy Giáp, Truyện Kiều, Đại Học và Trung Học Chuyên  Nghiệp, 1976, tr. 23. (6) Đoàn Trung Còn, Tứ Thư, Thuận Hoá, 2011.   (7) Trần Trọng Kim, Truyện Thúy Kiều, sđd, tr. 42.   (8) Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Khoa Học Xã Hội, 1989.  

 

Ý Nghĩa Của Tên Vân Là Gì? 101 Tên Đệm Hay Cho Con Gái Tên Vân

Tên đệm hay cho con gái tên Vân

Ý nghĩa của tên Vân là gì?

Theo nghĩa Hán Việt, Vân được hiểu là mây xanh, tự do tự tại, ngao du bốn phương, nhẹ nhàng lã lướt. Người tên Vân có tấm lòng bao la, tâm hồn bay bổng, thư thái và nhẹ nhàng, mang lại cảm giác dễ chịu cho người đối diện. Người tên Vân, hãy như mây trên trời.

Ngoài ra, tên Vân còn có nghĩa là cỏ thơm mang lại sự dịu mát và cảm giác thư giãn cho những gì xung quanh. Vân là một loài cỏ thơm mang lại không khí dễ chịu cho những ai tiếp xúc.

Tên Vân còn có ý nghĩa là sung túc. Mong muốn cuốc sống của con sau này sẽ ấm no hạnh phúc về sau. Ý nghĩa tên Vân còn là điều mà ba mẹ muốn gửi gắm vào cho đúa con sắp chào đời của chúng mình.

Gợi ý tên đệm cho chữ Vân hay mang ý nghĩa xinh đẹp, dịu hiền

Ái Vân: Người con gái nhẹ nhàng, thùy mị, đoan trang, dung mạo xinh đẹp, phẩm hạnh nết na.

Như Vân: Con giống như áng mây xanh nhỏ bé tự do trên bầu trời

Thanh Vân: Đặt tên đệm cho tên Vân ví con như áng mây xinh đẹp, duyên dáng

Hương Vân: Con là hương vị nhẹ nhàng phản phất trong sáng như mây bay

Hường Vân: Con là đám mây hồng thơ ngây trong sáng hiền dịu.

An Vân: Mong con sau này có cuộc sống bình an hạnh phúc

Nhã Vân: Con là người thanh cao, nhã nhặn, hiền dịu

Khả Vân: Mong muốn con có cuộc sống ấm no hạnh phúc yên bình nhẹ nhàng như những áng mây

Khánh Vân: Con là đám mây đem lại niềm vui cho mọi người

Ánh Vân: Chỉ áng mây sáng đem đến những điều tốt đẹp, tươi mới.

Bạch vân: Đám mây trắng tinh khiết trên bầu trời

Kim Vân: Là mây bằng vàng mang ý nghĩa xinh đẹp, quý giá, được mọi người ưu ái

Bảo Vân: Tên lót hay cho con gái tên Vân mang ý nghĩa mong muốn con có cuộc sống ấm êm, nhẹ nhàng, là bảo vật của bố mẹ, luôn được mọi người yêu thương, quý trọng.

Bích Vân: Mong muốn một dung mạo xinh đẹp, sáng ngời, một phẩm chất cao quý, thanh tao, là người tài càng mài dũa càng rèn luyện sẽ càng tỏa sáng.

Cẩm Vân: Chỉ người con gái nhẹ nhành, thanh tao, quý phái.

Diễm Vân: Mong muốn con có vẻ đẹp diễm lệ, thanh tú , trong trẻo như những đám mây xanh.

Diệu Vân: Cuộc sống của con tốt đẹp, nhẹ nhàng như những áng mây trong xanh, sau này giàu sang phú quý.

Dung Vân: Sự bao dung hiền hòa của con trong sáng như mây.

Hà Vân: Con là nữ nhi xinh đẹp, đoan trang nhã nhặn

Hạ Vân: Mang ý nghĩa xinh đẹp, nhẹ nhàng, tạo cảm giác thảnh thơi, thong dong

Hoài Vân: Đám mây trôi bồng bềnh nhẹ nhàng, từ đó mang ý nghĩa cuộc đời nhàn hạ, thong dong, vô ưu

Hoàng Vân: Tên mang ý nghĩa cao sang, quý phái

Hồng Vân: Là đám mây hồng xinh đẹp, tươi vui, giàu sức sống.

Kiều Vân: Mong muốn con có cuộc sống ấm no hạnh phúc yên bình nhẹ nhàng như những áng mây

Mai Vân: Con đem lại niềm vui tươi sáng cho gia đình.

Minh Vân: Con là đám mây tỏa sáng giữa trời xanh

Mỹ Vân: Mang ý nghĩa mong con lớn lên xinh đẹp tâm tính tốt lành.

Nga Vân: Đặt tên đệm cho con gái tên Vân chỉ người con gái đẹp, thướt tha xinh như tiên

Ngọc Vân: Con là người có dung mạo xinh đẹp, tỏa sáng như hòn ngọc quý

Nguyệt Vân: Là người con gái nhẹ nhàng, dịu dàng như áng mây, sáng trong, thanh khiết như ánh trăng.

Phong Vân: Ba mẹ mong muốn con vừa nhẹ nhàng, tinh tế như mây, vừa uy nghi, mạnh mẽ, dũng cảm như gió.

Phương Vân: Con mang đến vẻ đẹp tuyệt vời của mây xanh

Quỳnh Vân: Mang ý nghĩa đám mây đẹp, thanh tú, đoan trang

Thảo Vân: Con sẽ là cô gái thảo hiền và nhẹ nhàng như đám mây trôi trên trời xanh.

Thu Vân: Là cái tên đẹp mang ý chỉ người con gái thanh thoát, nhẹ nhàng

Thùy Vân: Con là người nhẹ nhàng, yêu đời, xinh đẹp, cả đời an nhàn, tự tại

Trà Vân: Con là cô gái thanh cao nhã nhặn, hiền dịu

Trang Vân: Mong con sau này nhỏ nhẹ hiền dịu

Tường Vân: Tên con được hiểu như đám mây phúc lành, mang đến điềm may mắn, tươi sáng

Tuyết Vân: Là đám mây trắng, nhẹ nhàng, thanh khiết.

Tú Vân: Con là nữ nhi ưu tú, có tài có sắc

Lan Vân: Con cao quý như loài hoa lan

Kim Vân: Mong con có cuộc sống sung túc, hạnh phúc

Linh Vân: Đặt tên lót hay cho con gái tên Vân mang ý nghĩa con là người trong sáng, lạc quan

Hạnh Vân: Con là người sống có trước có sau

Thương Vân: Con sau này có tấm lòng hiều dịu biết quý trọng yêu thương người khác

Thái Vân: Con là người sống có tình cảm, cuộc sống sung túc, hạnh phúc

Thạch Vân: Con là báu vật của ba mẹ

Quý vân: Con sau này biết quý trọng những điều vốn có luôn cố gắng phấn đấu vì tương lai

Tiểu Vân: Con là cô bé tinh nghịch, đáng yêu

Tuệ Vân: Con là người có thông minh nhanh nhẹn, có nhiều lý tưởng

Nương Vân: Con là người con gái đẹp như sắc mây.

Chi Vân: Con là áng mây nhỏ bé đáng yêu giữa bầu trời xanh

Thục Vân: Con có được tính kiên cường, chăm chỉ, tinh tế, làm gì cũng chú tâm hoàn thành tốt

Hoa Vân: Con xinh đẹp như một bông hoa giữa mây trời