Top 7 # Xem Nhiều Nhất Y Nghia Ten Van Tien Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Welovelevis.com

Ý Nghĩa Các Chữ Cái Trong Tên Bạn Y Nghia Cac Chu Cai Trong Ten Ban Doc

Nếu có tên bắt đầu bằng chữ D, bạn có thể là một quản trị gia tài ba. Bạn là người rất bảo thủ. Mặt tiêu cực: khắt khe, bướng bỉnh và thích tranh cãi.

Với chữ cái E (Ê)

Nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ E (Ê) bạn là một người cởi mở, thích tự do và đôi khi dễ thay đổi. Do chữ E có hình dạng quay về phía trước nên bạn là người lạc quan, nhìn xa trông rộng. Tuy nhiên, bạn rất nóng tính.

Với chữ cái G Nếu chữ cái đầu tên bạn rơi vào chữ G, bạn không được cởi mở cho lắm. Bạn có khuynh hướng thích sống một mình. Bởi vậy, bạn thường bị người khác hiểu lầm là lạnh lùng, khó gần. Khi bạn đã thích điều gì, bạn sẽ say mê đến cuồng nhiệt và thường đánh giá mọi người qua bản chất chứ không phải qua hình thức. Ngoài ra, bạn còn có khả năng diễn thuyết trước đám đông. Bạn sống cô lập, bảo thủ. Bạn rất hay bị hiểu lầm, người khác nhìn bạn như một ốc đảo. Tuy nhiên, bạn có quyết tâm cao và luôn xem “chất lượng hơn số lượng”. Mặt trái của bạn là thích chỉ trích và dễ làm tổn thương người khác.

Với chữ cái H Chữ H giống như một chiếc thang. Bởi vậy, bạn sẽ có nhiều bước thăng trầm trong cuộc đời. Bạn là người tự chủ, biết mình muốn gì, cần gì và hơn hết bạn là người đầy tham vọng, luôn khát khao vươn lên nấc thang của sự thành công. Nhược điểm duy nhất của bạn là quá ham kiếm tiền. Bạn tự kiểm soát tốt, có khát vọng mạnh mẽ đến thành công. Nếu có địa vị, bạn có thể là người lãnh đạo tốt, song cũng có thể rất tồi. Mặt tiêu cực: Hơi khắt khe trong cách nhìn nhận, đánh giá con người và sự việc. Bạn cũng nên cẩn thận với tiền bạc vì chữ H của bạn trống rỗng cả đầu lẫn đuôi.

Với chữ cái K Nếu K là chữ cái bắt đầu tên bạn chứng tỏ bạn thích cuộc sống tự do, vui vẻ và vô tư. Bạn đặc biệt yêu thích âm nhạc vì âm nhạc có thể làm dịu bớt sự căng thẳng trong tâm hồn. Bạn thường chủ động đối mặt với những vấn đề nan giải trong cuộc sống. Bạn hành động rất ngẫu hứng, lúc nào cũng khẳng khái, ung dung và cạn nghĩ. Các giác quan của bạn hơi kém. Nên lắng nghe những mối linh cảm của mình. Mặt tiêu cực của người có tên bắt đầu bằng phụ âm này: ít thật lòng và hay ủ dột.

Với chữ cái L

Ter Aller Tijde / Ten Allen Tijde / Ten Alle Tijde / Te Alle Tijde / Te Allen Tijde

Vraag

Wat is de juiste vorm: ter aller tijde, ten allen tijde, ten alle tijde, te alle tijde, te allen tijde of nog een andere vorm?

Antwoord

De juiste vorm is: te allen tijde.

Toelichting

Ten of ter zijn ontstaan uit een samensmelting van tot of te en een lidwoord (den of der). Dus als je er in de uitdrukking geen lidwoord bij kunt ‘denken’, is het altijd te en nooit ten of ter. Een combinatie als tot de alle tijd is onmogelijk, daarom is de correcte vorm te allen chúng tôi mogelijk zijn combinaties als tot de voorkoming van of tot het voordeel van. Daar krijgen we wel ter of ten: ter voorkoming van, ten voordele van.

Andere voorbeelden met te: te berge (rijzen), te berde (brengen), te dien aanzien, te dien einde, te gelde maken, te gelegener tijd, te gepasten tijde, te goeder ure, te goeder trouw, te gronde (richten), te kwader trouw, (hier) te lande, te mijnen bate, te mijner informatie, te mijner verdediging, te mijner verontschuldiging, te moede, te rade (gaan), te velde, te zijner tijd.

In plaats van mijnen, mijner kan ook steeds uwen, uwer, zijnen, zijner enzovoort worden ingevuld.

Andere voorbeelden met ten: ten aanval, ten aanzien van, ten algemenen nutte, ten anderen male, ten antwoord, ten bate van, ten bedrage van, ten behoeve van, ten believe, ten belope van, ten dans, ten deel (vallen), ten dele, ten dode (opgeschreven), ten eeuwigen dage, ten eigen bate, ten einde raad, ten gevolge van, ten grave, ten gronde, ten gunste van, ten huize van, ten koste van, ten kwade, ten langen leste, ten laste, ten oorlog, ten opzichte van, ten overstaan van, ten overvloede, ten tijde van, ten tonele, ten voeten uit, ten volle, ten volste, ten voordele van, ten zeerste.

Andere voorbeelden met ter: ter aanwending van, ter aarde, ter andere zijde, ter attentie van, ter been, ter bekostiging van, ter beoordeling, ter beschikking van, ter bezichtiging, ter ene zijde, ter ere van, ter gelegenheid van, ter griffie, ter grootte (breedte enzovoort) van, ter hand, ter harte, ter herinnering, ter helle, ter illustratie, ter inzage, ter ore (komen), ter perse, ter plaatse, ter sprake, ter tafel, ter verdediging, ter vergadering, ter voldoening, ter voorkoming van, ter waarde van, ter wille van, ter zake, ter zee, ter zitting.

Soms zijn ten of ter deel van een woord: teneinde, tenslotte, terdege, ternauwernood, tersluiks, terzijde enzovoort.

Zie ook

Naamvallen (algemeen) Vaste combinaties met naamvallen (algemeen)

Bij deze / bij dezen Ingevolge – ten gevolge van Op de duur / op den duur Ten deze / te dezen Teneergeslagen / terneergeslagen Ter plekke / ter plaatse Toendertijd / toentertijd Van goede huize / van goeden huize, te goede trouw / te goeder trouw

Naslagwerken

ANS (1997), p. 188 of online via de E-ANS online via de E-ANS, p. 520 of online online; Grote Van Dale (2005), Woordenlijst (2015); Van Dale Taalhandboek Nederlands (2011), p. 198-200

Quy Y Và Tên Pháp Danh

Khai tâm chơn chánh xua màn tối Mở trí thông hành xóa mây mưa Y áo sửa sang lo trọn vẹn Mõ Chuông chỉnh đốn để xin thưa Mười phương phát nguyện cùng Tam Bảo

Lạy Phật quy y cũng đã vừa! – ( Nguyễn Tâm)

Theo đạo Phật tức là chúng ta hành theo những điều chỉ dạy của đức Phật về sự từ bi vô lượng, thương độ hữu chúng sinh. Những người hay đi chùa thì đều biết về Tam quy ngũ giới. Đó là nơi chúng ta có thể trở về tìm lại suối nguồn chân hạnh phúc mà ta đã vô tình đánh mất từ thửa nào, một nơi nương tựa tâm linh vững chắc, quay về nương tựa Tam Bảo đó cũng chính là lúc chúng ta có một cuộc sống có ý nghĩa và an lành hơn.

Giáo lý nhà Phật, cũng như đức Phật có quy định là có bốn hàng đệ tử Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni là những người xuất gia, còn Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di là những cư sĩ tại gia là cận sự nam và cận sự nữ luôn phụng sự Tam bảo. Theo một lẽ thông thường thì để có pháp danh tức nói nôm na là tên ở chùa thì cần phải Quy y Tam Bảo. Cái tên đó do sư thầy bổn sư đặt và lúc đó chúng ta mới là một phật tử chân chính, đệ tử của đức Phật. Đệ tử tại gia thì sẽ làm lễ Quy y trở thành một đệ tử của đức Phật và thọ năm giới.

Đối với một số chùa thì ngày Rằm, lễ lớn hay chùa đó tổ chức Quy y thì đệ tử sẽ phải có mặt. Trong lễ Quy y đối với một số nơi vùng sâu, xa xôi thì có thể tại tư gia của một gia đình phật tử, ở đó thiết lập một bàn thờ Phật và một bàn cho sư thầy bổn sư, sau đó thầy sẽ làm lễ Quy y, truyền năm giới cơ bản cho phật tử tại gia rồi thầy sẽ đặt tên (pháp danh). Tên pháp danh thì sẽ tùy theo thầy bổn sư đặt có thể là theo dòng kệ các phái, cũng có thể đặt theo tên chùa hoặc đặt nữ là Diệu nam là Tự hay Thiện… cái đó sẽ tùy mỗi cách đặt tên của thầy bổn sư.

Chúng ta sống ở đời nhiều nên sẽ có những tập khí của cuộc sống ngoài đời, nên theo cá nhân con xin pháp danh qua mạng sẽ giống như chúng ta xin một món đồ, món ăn… Vậy tại sao ngay bây giờ mình không tách riêng biệt giữa đời và đạo, con nghĩ như vậy mình sẽ có cơ hội nhận diện bản thân mình rõ hơn.

Có nhiều người xin các thầy đặt cho một pháp danh qua mạng thì con chỉ có vài điều chia sẻ rằng đó chỉ là tên gọi mà thôi và khi đã xin pháp danh tức là chúng ta đang hạnh theo lời đức Phật, thiên hướng một phần ý niệm về Phật giáo. Vậy tại sao chúng ta không thu xếp một ngày nào đó tới một ngôi chùa và bạch thầy trụ trì xin làm lễ Quy y Tam Bảo và trong lễ Quy y đó sẽ có tên pháp danh. Con thấy hành động đó rất dễ thương. Điều đó không mấy khó khăn mà còn rất ý nghĩa.

Hãy xem trong một bát canh Oán sâu thành biển, hận thành non cao Muốn xem nguồn gốc binh đao Lắng nghe lò thịt tiếng gào đêm thâu

Đường đời có muôn vạn nẻo, luôn bị đắm chìm trong biển khổ, chạy theo những lầm lũi vô minh, luôn sống trong nghiệp lực, vô định không biết đâu là bến bờ của hạnh phúc và sự giải thoát. Có bao giờ chúng ta tự hỏi mình “Mình đang tồn tại đó nhưng thật sự đã sống trọn vẹn trong từ sống đó chưa?” Quay về nương tựa hải đảo tự thân, chánh niệm là Phật soi sáng xa gần…Tam Bảo là thuyền từ cứu độ đưa người vượt qua sông mê, là ánh tuệ đăng soi sáng màn đêm u tối, đem đến an vui hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Diệu Minh

Văn Học Địa Phươngchiêu Anh Các Trong Sự Vận Động Của Văn Hóa Chieu Anh Cac Trong Su Van Dong Cua Van Hoa Docx

CHIÊU ANH CÁC TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA VĂN HÓA, VĂN HỌC ĐÀNG TRONG

Chiêu anh các – T ao Đ àn của Hà Tiên TK XVIII, cho đến nay, đặt ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ và đồng thời đặt ra nhiều câu hỏi thú vị trong quá trình nghiên cứu và xác định vai trò, tầm vóc và ý nghĩa của tổ chức văn học mang tính xã hội này.

Chiêu anh các có phải là sản phẩm có tính lịch sử, nghĩa là sự ra đời của tao đàn này là kết quả của một sự vận động nội tại của văn học, văn hóa vùng Hà Tiên?

Phải chăng không xuất hiện tính kế thừa giữa tao đàn trước (ví dụ Tao đàn nhị thập bát tú của Lê Thánh Tông) với tao đàn kế sau, là Chiêu anh các). Nghĩa là nó ra đời độc lập, không diễn tiến theo tiến trình chung của xuất phát điểm là văn học phía bắc đất nước, mà hình thành từ một thực tế khác?

Nội dung thù tạc, ngâm vịnh là nội dung chủ yếu của thơ Chiêu anh các, điều đó có nói lên ý nghĩa của việc thành lập, tồn tại của tao đàn?

Sự tham gia có tính quyết định của giới cầm quyền đối với sự hình thành Chiêu anh các (các tao đàn khác như Nhị thập bát tú, Thi xã Mặc Vân cũng có vai trò lớn của những người có uy thế quyền lực trong xã hội) khác với các tổ chức văn hóa, văn học tự phát ở xã hội hiện đại.

Những bài thơ của Chiêu anh các giới thiệu Hà Tiên với bạn đọc cả nước, góp phần quan trọng lưu truyền các địa danh Hà Tiên, điều này có khác và giống thơ ca Trung Quốc làm cho phong cảnh Trung Quốc thành nổi tiếng như Phong Kiều dạ bạc , Hoàng hạc lâu , Bến Tầm Dương ?

Sự hiện hữu của việc lưu giữ, giới thiệu thơ nôm và đánh dấu sự phát triển thơ nôm Nam Bộ hay chính xác là miền cực nam đất nước.

Sự truyền lưu thơ Chiêu anh các ra cả các tỉnh phía Bắc, biểu hiện là Lê Quý Đôn và nhiều người khác cùng thời đánh giá cao thơ ca của tao đàn này, đặt vấn đề nhận thức về các quan hệ khá sớm và cùng thời giữa nhà nho miền cực Nam với Bắc nước Việt. Nghĩa là phần nào đó cho thấy đã có sự thống nhất về phương diện văn học giữa một vùng đất mới với phần còn lại của đất nước, ngay khi đất nước vẫn còn phân tranh.

Sự hình thành một cách hợp tác thành công giữa cư dân bản địa và cư dân “ngoại kiều” nhập cư.

Bấy nhiêu vấn đề có được từ Chiêu anh các, thiết nghĩ, cũng đã cho thấy vai trò của tao đàn này quan trọng không chỉ đối với Hà Tiên mà đối với cả nước, không chỉ đối với văn học mà còn cả văn hóa.

Nếu nhìn nhận Chiêu anh các trong sự tách bạch, không liên hệ với văn học văn hóa Đàng Trong, nghĩa nhìn nhận nó một cách độc lập, thì chắc không thực sự thấy được ý nghĩa của nó như đáng phải được nhìn thấy, phải được đánh giá đúng.

Chúng tôi, vì lí do thời gian và điều kiện tư liệu, không thể đi sâu vào từng vấn đề được đặt ra nhưng trong phạm vi của mình cũng đã thấy được phần nào tính độc đáo, và vai trò của Chiêu anh các trong sự vận động của văn hóa, văn học vùng đất phía cực Nam của xứ Đàng Trong. Trên một vài phương diện cũng cho thấy chính những thành viên Chiêu anh các đã tự ý thức về vai trò của mình ngay trong việc thành lập và trong các văn bản thơ ca của họ về văn hóa, văn học đối với Hà Tiên.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, các tổ chức văn học dưới các tên gọi tao đàn, thi xã thực sự không nhiều, và sự tác động của nó đến cộng đồng xã hội, văn hóa, văn học đến đâu thì dường như vẫn chưa có những nghiên cứu xác định. Nếu có nhiều điều kiện để khảo sát thêm nhiều phương diện khác của mảnh đất mới Hà Tiên trước Chiêu anh các, cụ thể là thơ văn nôm, là sinh hoạt văn học, văn hóa, là quan hệ xã hội, văn hóa giữa các trí thức thời kỳ này với nhau ra sao, trước đấy ra sao, thì chắc chúng ta có thêm nhiều căn cứ để xác định những đóng góp cụ thể của hội tao đàn này, ít nhất là trên bề mặt văn bản được in dấu trong văn học đã được truyền lưu. Dù sẽ có cái gì mới được phát hiện thêm trong tương lai thì ngay bây giờ cũng không thể không khẳng định vai trò của Chiêu anh các đã giới thiệu về Hà Tiên cho chúng ta lâu nay, và cả các thế hệ trước chúng ta rất lâu. Không ít bạn đọc nhiều thế hệ biết đến Hà Tiên qua Chiêu anh các.

Chiêu anh các với chúng ta hiện nay là nguồn tư liệu cực kỳ quan trọng để nhìn nhận một thời kỳ lịch sử văn hóa Hà Tiên và không chỉ của Hà Tiên, mà còn đánh dấu hành trình văn hóa của cha ông trên đường nam tiến, đánh dấu sự kết hợp bản địa và ngoại lai.

Theo thời gian lịch sử, chúng ta thấy có Tao đàn nhị thập bát tú của Lê Thánh Tông TK XV, Chiêu anh các của Mạc Thiên Tích, và thi xã Bình Dương (tên gọi trước đó của thi xã này là Gia Định sơn hội) TK XVIII, thi xã Mặc Vân TK XIX. Trong hệ thống đó Chiêu anh các, về phương diện thời gian là xuất hiện khá sớm, chỉ sau Tao đàn nhị thập bát tú, và trong khi có khá nhiều khác biệt thì có điểm chung là nội dung văn học, nội dung một tao đàn văn học dường như là nổi bật. Cảm hứng văn chương là nguồn cảm xúc chủ yếu của thơ Chiêu anh các. Trong đó phong hoa tuyết nguyệt, cảnh vật, con người ở nơi thanh bình yên tĩnh là nội dung gần như duy nhất ở đây. Cùng thời kì này, các tác phẩm Đàng Ngoài đã nhuốm màu thế sự hay đã có những dấu hiệu của ý thức cá nhân. Xưa nay trong giới nghiên cứu thì văn học là nội dung được khai thác nhiều hơn cả đối với tao đàn này, trong khi những khía cạnh khác, kể cả các cách tham gia của các thành viên, sự xuất hiện với số lượng và vị trí của thơ nôm, tính chủ động tham gia của người bản địa, các yếu tố Đông Á, Đông Nam Á,.. và nhiều điều chưa được giới nghiên cứu phân tích như những đòi hỏi cần phải có khi nghiên cứu đối tượng này.

Văn học Việt Nam xưa nay được khẳng định, cắm mốc bằng những cá nhân hơn là bằng các tổ chức, nhóm hội hay trường phái. Điều đó là nét khác biệt khá rõ đối với thơ Chiêu anh các. Tách thơ ca của từng cá nhân hay tách từng bài riêng lẻ ra thì dù vẫn có những giá trị độc lập, vẫn không nói được gì nhiều hơn như chúng được đặt trong toàn bộ thi phẩm của Chiêu anh các, nhất là trong một thời điểm văn thơ nôm Đàng Trong vẫn chưa thực sự phát triển như các tác phẩm cùng loại ở các tỉnh miền Bắc đất nước. Cái hay của thơ Chiêu anh các là cái hay của một hiện tượng, cái hay của một tổ chức tao đàn được đối sánh trong một điều kiện văn học và văn hóa không đồng đều giữa các vùng trong toàn quốc.

Nếu chúng ta đặt thơ Chiêu anh các trong tình hình văn học TK XVII-XVIII, khi thơ văn Đàng Trong không chỉ “lơ thơ”(1) về số lượng tác phẩm mà còn quá ít ỏi về lực lượng sáng tác, thì sẽ thấy rõ hơn, và tất nhiên sẽ quý hơn những gì được Chiêu anh các để lại. Nói như thế sẽ

được hiểu là càng hiếm càng quý, hiểu như thế không sai, nhưng nếu hiểu như là nó không được sinh thành, kích thích bởi thành quả, thành tựu của một môi trường đã dồi dào sự sáng tạo, cả về số lượng và chất lượng thì đúng hơn với điều chúng tôi muốn hướng đến.

Theo thống kê của Cao Tự Thanh thì văn học Đàng Trong giai đoạn này chỉ có: Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn của Đào Duy Từ, Thư trả lời Trịnh Tráng của Nguyễn Phước Nguyên, Hoa Vân cáo thị của Nguyễn Hữu Dật và một số bài chưa rõ tác giả như Trấn Ninh trận phú , Văn khao tế quân Nam chết trận Trấn Ninh, Văn ủy tế quân Bắc chết trận Trấn Ninh , cùng một vài tác phẩm được Nguyễn Khoa Chiêm chép trong Nam triều công nghiệp diễn chí (2). Trong số tác phẩm kể trên có tác phẩm được sáng tác bằng chữ Nôm, bằng chính thể thơ nôm, nhất là thể lục bát. Cũng cần lưu ý rằng các tác phẩm Đàng Trong này đã được lưu hành vào đến Hà Tiên không? Và nếu được lưu hành thì có lưu hành đồng đại không? Với quãng cách không gian lưu hành chính của các tác phẩm kể trên là cách biệt địa lý với Hà Tiên khá xa thì sự thể về một sự tương tác văn hóa, sự cộng cảm hay kích cảm với các tác gia Chiêu anh các là thế nào, đến mức nào, có hay không dấu hiệu sự tiếp nhận các thành tựu thơ nôm Đàng Ngoài trong thơ của Chiêu anh các? Trả lời được các câu hỏi đó cũng có nghĩa là nói đến sự phát triển độc lập ở mức nào trong thơ văn nôm Hà Tiên qua Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh . Đồng thời việc trả lời này cũng chứng minh sự thống nhất Nam Bắc đã thực sự hiện diện ở phương diện văn học, như đã nói ở trên, trước khi thông qua cột mốc thơ nôm Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh – một sự thống nhất được thiết lập trước khi thống nhất về địa lý dưới một chính thể quân chủ nhà Nguyễn.

Trong sự giao liên không được thuận lợi, liệu các tác gia trong Chiêu anh các có điều kiện tiếp nhận được sớm các tác phẩm thơ văn khác ở Đàng Trong như Ngọa Long cương vãn , Tư Dung vãn không khi Đào Duy Từ là tác giả ở miền Trung xa xôi. Nghiên cứu ảnh hưởng vẫn là một mảng trống trong khu vực mà chúng ta đang nói tới nên đặt vấn đề văn học Đàng Trong nói chung mà không nói đến những cách biệt địa lý giữa các tác gia trong vùng này với nhau thì hình như chưa nói lên sát thực về sự độc lập nhất định của từng khu vực. Tác gia khác như Nguyễn Hữu Hào lại ở vùng bắc Thuận Hóa có lễ gần với Đàng Ngoài hơn là Đàng Trong mặc dù về “địa lý hành chính”, nếu có thể gọi như vậy, lại thuộc Đàng Trong.

Nhưng sự liên hệ giữa những tác gia tên tuổi mà chúng ta cần tìm có cần thiết hơn tìm một môi trường văn hóa đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc sáng tác của Chiêu anh các? Tư liệu chắc vẫn còn đâu đó mà cúng tôi chưa tiếp cận được, nhưng phải nói rằng nhờ chính văn bản thơ nôm Chiêu anh các mà chúng ta có thể nhận biết rằng, tại Hà Tiên TK XVIII trở về trước, đã hình thành các sáng tác hay nhu cầu sáng tác về thơ nôm. Bằng chứng là khi có sự xuất hiện Chiêu anh các thì ở đây, có sáu thành viên là người Việt (3) thì ngoài mấy người Thuận Quảng, Gia Định, Thuận Hóa có người bản địa Hà Tiên (4) tham gia sáng tác, và điều đó chứng tỏ nơi đây cũng đã từng tồn tại tiềm tàng nhu cầu văn học, nhu cầu sáng tác thơ nôm. Nhu cầu đó phải xuất hiện trong từng thành viên hay có thể nói rằng những thành viên đó đã từng sáng tác mới có thể tham gia bình đẳng với các thành viên khác trong công việc sáng tạo tinh thần này, cũng như việc họ đã được cấu thành trong nhóm chiêu anh, họ đã được lựa chọn vào đây tự nhiên như một anh tài của mảnh đất này vậy.

Cũng có thể nói rằng trước khi tham gia vào Chiêu anh các, những thành viên tự nguyện của đất Hà Tiên, với một mức độ nào đó, đã có ” tên tuổi”, đã ” sáng giá” trong số những người được học hành tử tế của xứ sở này hay tên tuổi của họ cũng đã từng được dư luận đã biết đến.

Không cần thiết phải sàng lọc rõ ràng người bản địa và người di cư cũng đã thấy rằng phải có môi trường, phải có nhu cầu thì địa bàn này mới tạo ra được một tao đàn văn học như thế. Nếu không có một môi trường vốn đã tồn tại như một kích thích tố quan trọng thì chừng ấy

Nếu những người Việt từ Thuận Hóa, Thuận Quảng, Gia Định “vì hâm mộ thanh danh Chiêu anh các, cảm mến phong lưu tài vật đất Hà Tiên mà tìm đến”(5) như Đông Hồ nói thì vùng đất này, trước khi Chiêu anh các ra đời, trong dư luận Đàng Trong, đã là một nơi văn vật nổi tiếng hay tổ chức Chiêu anh các đã tạo được tiếng tăm nhất định trong giới học thức Đàng Trong.

Thứ hai, thơ nôm từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong theo cư dân, theo những người khai phá vùng đất mới này phải có điều kiện đi cùng hay nếu sớm hơn bước chân Nguyễn Hoàng năm 1600, khi ông vào nam, thì cũng không phải là đã có mặt ở đây từ sớm, nhưng sự lan tỏa thơ nôm, với thời gian như thế, đến lúc xuất hiện trong Chiêu anh các, cũng phải nói là khá nhanh và bền vững. Người Việt vào đây chắc mang theo vốn liếng thơ ca nôm của mình và lưu hành trong cộng đồng dân cư vùng đất mới.

Sau khi Chiêu anh các xuất hiện một thời gian, tiếng vang của nó khiến cho những bậc anh tài trên đất nước quan tâm, đánh giá cao, và vì thế Hà Tiên, với sự xuất hiện Chiêu anh các, đã trở thành một trung tâm văn học có uy thế trong cách nhìn của cả nước – điều mà trước năm 1736 chắc không thể dự tính được.

Cũng phải khẳng định việc Chiêu anh các được Nguyễn Cư Trinh, Lê Quý Đôn, Trịnh Hoài Đức giới thiệu trân trọng cũng làm cho tiếng vang của tao đàn này đến với giới trí thức toàn quốc và đồng thời gia nhập vào gia tài văn học đất nước, vào tri thức chung của cộng đồng, khi giang sơn chưa được thống nhất.

1, 2. Chữ của Cao Tự Thanh trong bài Văn học Đàng Trong , in trong Văn học Việt Nam TK X-XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử , Trần Ngọc Vương chủ biên, Nxb Giáo dục , Hà Nội, 2007, tr.273.

4, 5, 6. Theo Đông Hồ, Sđd, tr.34, 32.

Nguồn: Tạp chí VHNT